KHÔNG VONG BẢN VẪN NGHE SẦU CỐ XỨ


Không vong bản vẫn nghe sầu cố xứ
Lòng ta đây ngan ngát nhớ quê nhà
Nhớ như nước nhớ sông như cành nhớ gió
Đã qua rồi ai thấu hiểu lòng ta

Ta đâu muốn thành người không có gốc
Bộ rễ sâu cho lá đâm chồi
Cũng mong tặng cho đời dăm bóng mát
Chiếc tàn hoa tuyết mặc tình rơi

Ta muốn vui nuôi dưỡng lấy môi cười
Nghe ai hát những ngày nắng ấm
Bởi đã qua ngày đông giá lạnh
Đã bồng bềnh như tảng băng trôi

Như vậy đấy mà thành cố xứ
Biển đâu xanh bằng biển quê mình
Đấy là hương và đấy là da thịt
Là vỗ về êm ái một hàng thông

Một lần quay lưng một lần mãi mãi
Mang tấm thân phiêu lãng gửi quê người
Giấc mơ xa vẫn còn nghe róc rách
Con nước nào đang đổ xuống miền xuôi

Một lũ cánh bèo đi qua im lặng
Dăm cành hoa mảnh gỗ mới xa nguồn
Không trăng sao tối như đêm trừ tịch
Ánh đèn chài le lói giữa trời đêm

Cảm xúc ấy chất đầy nơi ký ức
Vượt qua nhiều giới hạn một niềm đau
Vượt tất cả vượt qua tất cả
Cũng không buồn đếm thử được bao nhiêu

Như vậy đấy mà thành cố quận
Lang thang không quê quán tự khi nào
Trong cơn mơ ta vẫn nhìn thấy biển
Sóng vô tình mà thấu hiểu lòng nhau

CAO THOẠI CHÂU

RU CAO DÁNG RỒNG


Trời ru mây ngủ bềnh bồng
Sử thiêng ru truyện Tiên Rồng Âu Cơ
Ru xưa đến mới bây giờ
Ru ngàn năm dựng cơ đồ Thăng Long
Câu hò ru nước trên sông
Câu ca dao mẹ ru đồng lúa xanh
Gió mùa ru bóng trăng thanh
Câu Kiều ru lớn em anh tháng ngày
Chiều ru lả cánh cò bay
Quê hương ru ấm nhịp chày mẹ cha
Nắng mưa ru đất mặn mà
Lỡ bồi ru nước phù sa ngọt ngào
Em anh giờ cốt ru sao
Cho non nước Việt bay cao dáng rồng

HOÀNG VÂN

TƯƠNG LAI - CHÚNG TA KHÔNG VÔ CAN


Xã hội có trước khi chúng ta sinh ra. Những bức tường xã hội đã có sẵn trước khi chúng ta ra đời, nhưng rồi cũng do chính chúng ta bồi đắp thêm lên. Chúng ta bị đóng khung trong xã hội [cũng có thể nói bị “giam cầm” trong xã hội] bằng chính sự hợp tác tự nguyện của chúng ta.
Chúng ta đâu có được chọn lựa, cũng như con cái đâu có quyền chọn cửa để sinh ra. Nếu con cái không có quyền chọn lựa cha mẹ, thì cha mẹ cũng vậy! Cho dù y học hiện đại đang tạo ra những điều kiện mới giúp phần nào cho sự quyết định sinh con, nhưng nếu có như vậy, thì sự tác động ấy cũng cực kỳ hạn chế, tất cả vẫn tùy thuộc vào “ân huệ” của tạo hóa. Và bất luận thế nào, đứa con cũng là báu vật của một đời người, báu vật của một gia đình, không gì thay thế được.
Cho nên, tuy không có quyền chọn lựa, song cha mẹ lại hoàn toàn phải chịu trách nhiệm dạy dỗ con cái nên người. Vì thế, nếu ai đó tự biện hộ cho sự thiếu quan tâm giáo dục con cái bằng câu thành ngữ quen thuộc “cha mẹ sinh con, trời sinh tính” chỉ là một cách buông xuôi vì dù muốn dù không thì vẫn “con dại cái mang”.
Thế nhưng, để cho một đứa trẻ “nên người”, không thể chỉ là trách nhiệm của riêng gia đình, mà còn phải là trách nhiệm của xã hội với những thiết chế đã định hình, trong đó, trước hết là nhà trường, tiếp đó là những cộng đồng gần gũi với quá trình “nên người” ấy của đứa trẻ.
Nói “chúng ta không vô can” trước “nỗi đau xã hội” như đã trình bày ở số báo trước là trên ý nghĩa ấy.
Những nạn nhân và những thủ phạm trong các hành vi bạo lực học đường đang làm bức xúc dư luận xã hội không tự trên trời rơi xuống. Những tay quay phim không chuyên hào hứng chớp lấy những cảnh bạo lực tàn bạo để đưa lên phim, và ngay cả những “khán giả” bất đắc dĩ hoặc tự nguyện, xem ra cũng đều là thủ phạm hoặc nạn nhân. Có lẽ đúng hơn là cả hai! Gia đình không thể lẩn tránh trách nhiệm trước “nỗi đau xã hội” đó.
Những thủ phạm và nạn nhân của bạo lực ấy chỉ khác nhau ở cái tổ ấm gia đình được tạo dựng trong căn hộ tồi tàn chật chội hay trong ngôi biệt thự kín cổng cao tường, nhưng lại tuyệt đối giống nhau là đều được sinh ra trong một gia đình [loại trừ những cá biệt ngay đến điều đó cũng không có].
Đã có một số bài báo cho biết nhân thân của vài nữ sinh tham dự vào các vụ bạo lực ấy để đưa đến một nhận định hành vi hung bạo, mất hết “nữ tính” nói kia là do hoàn cảnh bất hạnh. Có thể có điều đó. Nhưng cũng không ít trường hợp cả nhà trường và phụ huynh của học sinh đâm chết bạn lại cho biết em vốn là học sinh ngoan, hiền lành, không có biểu hiện gì bất thường. Và thế rồi bố mẹ bàng hoàng sửng sốt trước sự việc xảy ra.
Chao ôi, dù là “tổ ấm” có trở thành “tổ lạnh” thì vẫn là cái “tổ”, nơi con người sinh ra và lớn lên. Chỉ có điều gia đình không phải là một ốc đảo giữa đại dương xã hội! Gia đình đang gánh chịu sự tác động dữ dội của xã hội, một xã hội đang chuyển mình với bao chuyển đổi. Gia đình vừa hút vào mình những dưỡng chất cũng như những độc chất từ xã hội đồng thời với việc đưa vào xã hội những hay dở, tốt xấu của riêng mình.
Tuy rằng lọt lòng mẹ, con người đã có sẵn một xã hội như vừa nói. Thế nhưng, theo Hégel, chính “con người tự sản sinh ra mình”. Bằng cách nào? Bằng xã hội, trong xã hội. Nói chính xác hơn: trong quá trình xã hội hóa [với ý nghĩa vốn có của chuyên ngành xã hội học chứ không phải theo cách dùng tràn lan hiện nay] bằng hoạt động thực tiễn.
Thông qua hoạt động thực tiễn, con người làm biến đổi đời sống xã hội và đồng thời cũng định hình chính mình. Khởi đầu cho quá trình đó là từ gia đình. Trên ý nghĩa đó, gia đình là một bộ phận không thế tách rời của xã hội, là một khâu trong chuỗi tiến trình “xã hội hóa” của con người để trở thành một thành viên của xã hội.
Bởi vậy, xét đến cùng, những hành vi bạo lực, cho dù là bạo lực gia đình, bạo lực học đường, bạo lực sân cỏ, bạo lực đường phố… thì nguyên nhân vẫn phải truy tìm về xã hội, về môi trường xã hội đang có quá nhiều vấn đề. Hãy chỉ gợi lên sự tương tác giữa đô thị, nơi xảy ra nhiều hơn những hiện tượng bạo lực, với nông thôn.
Một nông thôn rộng lớn đang đối diện với quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa với bao thách thức nghiệt ngã. Chỉ riêng nạn mất đất nông nghiệp khi mà tỷ lệ đất canh tác trên đầu người đã quá thấp, tất yếu đẩy tới thừa lao động vốn là căn bệnh trầm kha của nền nông nghiệp lạc hậu. Hệ lụy trực tiếp của điều này là sự xáo trộn trong gia đình cư dân nông nghiệp: những lao động chủ lực trong gia đình nông nghiệp phải lần đến các khu công nghiệp ở các đô thị để kiếm việc làm.
Công việc đồng áng tại nhiều vùng nông thôn chuyển sang cho phụ nữ và người già. Đồng tiền kiếm được từ đô thị và khu công nghiệp gửi về quê nuôi sống gia đình có cái vị đắng không tiện nói ra, nhất là đối với những người chủ gia đình phải rời vợ con và bố mẹ già tha phương cầu thực.
Và rồi, một đô thị đang quá tải với việc tăng dân số cơ học do người từ làng quê đổ dồn vào kiếm việc làm khi mà cơ sở hạ tầng không sao đáp ứng nổi, đi liền với nạn vật giá gia tăng, tạo nên những xáo trộn dữ dội trong nếp sống đô thị. Điều tác động trực tiếp vào mọi tầng lớp cư dân đô thị là cảm giác bất an!
Không chỉ bất an về trộm cắp cướp giật và bạo hành, mà còn là tai nạn giao thông luôn rình rập. Hãy chỉ gợi lên việc không gia đình nào dám để trẻ em cấp I một mình đến trường! Còn các cháu học sinh từ cấp II trở lên chỉ cần về học muộn là không ít gia đình đứng ngồi không yên, phải bổ đi tìm.
Vì sao? Vì không còn tin vào việc con mình được an toàn trên đường phố: tai nạn giao thông, trấn lột, bị bắt nạt trong bối cảnh không thiếu người ngay sợ kẻ gian, cái thiện lép vế trước cái ác, thấy sai không dám phê phán, thấy đúng không dám bảo vệ, thấy người lương thiện bị hãm hại không dám lên tiếng can ngăn vì sợ bị trả thù!
Có nhiều nguyên nhân đưa đến những ứng xử đó, trong đó, trước hết phải kể đến vai trò của pháp luật và tinh thần thượng tôn pháp luật vốn được xem là một chỉ báo của xã hội văn minh thì còn quá nhiều bất cập, mà một trong những biểu hiện có tác động đến tâm lý xã hội là tính công minh của pháp luật.
Chẳng hạn như, đã có không ít “kịch bản” được dàn dựng xoay quanh một vụ án mà những lời đồn đoán, không biết thực hư, rằng do chúng động chạm quá nhiều. Người ta sợ “rút dây thì động rừng”, cây con dễ cưa nhưng cây lớn khó chặt vì rễ nó chằng chịt, lại chui rất sâu, chỉ riêng cây đổ cũng rúng động một góc rừng!
Ấy vậy mà “trừng trị cái sai không tránh kẻ đại thần, thưởng cái đúng không bỏ sót kẻ thất phu”(*) vốn là sức mạnh của luật pháp, thể hiện ý chí và khát vọng muôn đời của người dân dưới bất cứ thể chế chính trị nào. Không thực hiện được điều đó thì rồi sẽ còn có nhiều “kịch bản” điêu luyện được dàn dựng để diễn ra nghịch lý của pháp luật từng bị lên án từ xa xưa, nơi “ruồi to chui lọt, ruồi con mắc lưới”.
Khi niềm tin vào luật pháp bị phôi pha, không ít trường hợp người ta buộc phải tìm đến “luật rừng”. Thì “nữ sinh đánh nhau” là một cách tự xử theo kiểu “luật rừng” đấy thôi. Cho dù 36 thế kỷ rước đây, Hammourabi, người sáng lập Babylone, đã nói rõ “công lý xuất hiện là để ngăn chặn kẻ mạnh làm hại kẻ yếu”. Đó là một ý tưởng tuyệt đẹp cho dù nhuốm màu ảo tưởng.
Vì ở vào thời buổi nào thì vẫn có kẻ mạnh, mạnh vì quyền lực nắm trong tay và đồng tiền nằm trong túi, hai cái đó thừa sức làm lệch cán cân công lý cho dù về nguyên lý thì “pháp luật không hùa theo kẻ sang. Sợi dây dọi không uốn mình theo cây gỗ cong”(**)!
Dư luận xã hội chưa hết bức xúc về vụ chó bẹc giê chủ trang trại cắn chết dã man người phụ nữ nghèo đi mót cà phê, cũng như vụ án về người đã từng được phong là anh hùng với rất nhiều tình tiết phi lý gây phẫn nộ cho những ai quan tâm đến đạo lý xã hội, và vừa rồi vụ án ấy đã buộc phải xem xét lại đã thỏa mãn phần nào sự phẫn nộ ấy.
Bức xúc, phẫn nộ, thỏa mãn hay hài lòng về thực trạng, tất cả đều có nguồn cơn của nó!
“Chúng ta không vô can” cho dù nhiều người trong chúng ta chưa có nỗi đau của những bậc làm cha làm mẹ có con trực tiếp là nạn nhân hoặc là thủ phạm của nạn bạo lực đang là “nỗi đau xã hội”, nhưng nếu chúng ta im lặng, cho dù không là “vô cảm”, trước nỗi đau đó thì lương tâm vẫn mách bảo rằng: dường như chúng ta đang là tòng phạm!
Theo TƯƠNG LAIDoanh nhân Sài Gòn Cuối tuần
(*), (**) Hàn Phi “Hàn Phi Tử”.Tập I. NXB Văn học. Hà Nội 1990, tr.49

NGƯỜI ĐÀN BÀ VIỄN CHINH


Có ai đang đi ngoài kia
Vào đây chút để tôi chia muộn phiền
Bàng hoàng cơn gió nổi điên
Xé tan tành đám mây thiền trời xanh

Tôi ngồi dưới mái nhà tranh
Mà tâm hồn chạy loanh quanh ngoài đường
Chồng tôi bảo tôi đáng thương
Chuyện nhà lo ít muôn phương lo nhiều

Tôi không nói cũng lắm điều
Hồn tôi như một con diều đứt dây
Tại trời xanh hút lòng cây
Giấc mơ cũng bị trời gây phiền hà

Lại còn chim bướm còn hoa
Lá vàng dụ dỗ tôi ra khỏi mình
Hồn tôi là cuộc viễn chinh
Người chung thủy thích ngoại tình thiên nhiên .

NGUYỄN THỊ ÁNH HUỲNH

TIỂU SỬ


một thời tóc bỏ đuôi gà
đi qua nhà ngoại áo bà ba xanh

một thời tóc giắt hoa chanh
đi qua nhà nội mắt long lanh cười

một thời tóc rẽ đường ngôi
qua nhà con bạn, trên môi có trầm

một thời tóc dợn bềnh bồng
đi ra khỏi ngõ lại vòng trở vô

một thời tóc đội vạc thơ
đi mà không biết đi mô suốt ngày

HOA THI

ĐÊM

Đêm!
Đánh đố cuộc đời.
Hư ảo-
Dấu chim di khắc khoải
Nẻo xưa.
Mỗi lần qua,
Ngày xưa quằn quại.
Cứu vãn nợ đời
Đêm oằn gánh rong rêu.

Ngày trôi nhanh nhịp thời gian thánh thót.
Chim mỏi cánh rồi
Bấu víu
Chờ đêm.
Ngày mong mỏi
Đêm tàn
Canh khuya lạnh.
Gõ nhịp trôi, hoang tưởng, mơ hồ.

Em tựa vào khoảng không!
Ngày- đêm.
Thác đổ
Lặng im về,
Vá víu
Tình sâu.

HOÀNG THỊ THIỀU ANH

HUẾ : XÚC PHẠM NƠI TÔN NGHIÊM ,MỘT VIỆC LÀM VÔ VĂN HÓA

BIẾN NƠI THỜ VUA NHÀ NGUYỄN THÀNH PHIM TRƯỜNG TRẦN THỦ ĐỘ

Toàn bộ Long vị, bàn thờ của vua Minh Mạng, Hoàng hậu cùng dòng tộc tại chánh điện lăng Minh Mạng bị di dời xếp vào góc tường để làm trường quay phim Thái sư Trần Thủ Độ. Gần 250 con cháu hậu duệ vua Minh Mạng và các vua nhà Nguyễn về dâng hương bỗng tá hỏa khi không thấy nơi thờ tổ tiên của mình, Long vị của vua ở đâu.

Phim thể hiện bối cảnh lịch sử đời Lý nhưng thực hiện tại lăng vua nhà Nguyễn.

Lời "kêu cứu" từ hậu duệ của vua Minh Mạng

Lăng Minh Mạng (còn gọi là Hiếu Lăng) rộng 18ha do vua Thiệu Trị - con trưởng vua Minh Mạng xây dựng từ năm 1840 đến 1843 và tu bổ năm 2000 bằng kinh phí nhà nước, nằm trong quần thể di tích cố đô Huế được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới ngày 11/12/1993.
Chiều 12/4, ông Tôn Thất Viễn Bào (72 tuổi), hậu duệ thứ 4 của vua Minh Mạng, Chủ tịch Hội đồng Trị sự Nguyễn Phước tộc tại Huế bức xúc kể: “Sáng 11/4, gần 250 con cháu hậu duệ vua nhà Nguyễn từ khắp trong và ngoài nước về lăng Minh Mạng dâng hương nhân dịp tiết thanh minh hàng năm. Khi đoàn đến chánh điện thờ vua, hoàng hậu và dòng tộc thì chẳng thấy Long vị, bàn thờ, sập thờ… ở đâu. Một đoàn làm phim đang biến nơi đây thành trường quay rất lộn xộn”.
Chiều 12/4, chúng tôi cùng một số hậu duệ đời thứ 4, 5, 6… của vua Minh Mạng đến tham quan lăng thì cảnh tượng đúng như lời kêu cứu của Hội đồng Nguyễn Phước tộc tại Huế.

Sùng Ân Điện (nơi thờ vua Minh Mạng và Hoàng hậu) thành trường quay phim.

Sùng Ân Điện (nơi thờ vua Minh Mạng và Hoàng hậu Hồ Thị Hoa) mặc dù là nơi cấm quay phim, chụp hình nhưng đoàn làm phim với hơn chục máy quay, máy ảnh hoạt động hết công suất. Giờ nghỉ giải lao, diễn viên đoàn làm phim thì tha hồ chụp ảnh ngay chính điện thờ vua. Trong khi du khách đã bỏ một khoản tiền ra mua vé vào tham quan đưa máy ảnh ra chụp thì những người của đoàn làm phim nhắc nhở, không cho chụp.
Khoảng thời gian thực hiện một số cảnh quay tại lăng từ cuối tháng 3 đến nay, toàn bộ chánh điện thờ vua và hoàng tộc trở thành đại công trường để quay phim với ngổn ngang dây điện, cột đèn, bàn ghế, áo quần, tư trang… của đoàn làm phim. Hai bộ sập thờ được khênh đi chỗ khác để dựng lên một phòng ngủ của vua và hoàng hậu trong một cảnh phim.

Long vị vua, án thờ, sập thờ… bị dời đến một góc tường, nhưng không thấy Long vị vua Minh Mạng ở đây.

Du khách trong và ngoài nước bỏ tiền ra để thưởng ngoạn di tích, chiêm ngưỡng vị vua cùng dòng tộc chứ không phải xem phim trường ngay trên điện thờ vua linh thiêng này. Trên khuôn mặt nhiều du khách nước ngoài tỏ ra tức giận rồi bỏ đi vì không được thấy di tích của vua và không được chụp ảnh.
Ông Nguyễn Phước Vĩnh Tùng (75 tuổi, hậu duệ đời thứ 5 vua Minh Mạng) tâm sự: “Từ năm 1950 đến nay, năm nào tui cũng từ TP.HCM về Huế, dâng hương tổ tiên ở đây nhưng chưa lần nào thấy bị xúc phạm nghiêm trọng như vậy. Toàn bộ án thờ của vua và dòng tộc bị dồn vào một góc tường của chánh điện nhưng chúng tôi tìm mãi vẫn không thấy Long vị vua ở đâu, nếu bị thất lạc hay hư hỏng thì ai chịu trách nhiệm?”.
Hội đồng Trị sự Nguyễn Phước tộc là con cháu, hậu duệ của các vua triều Nguyễn, có nhiệm vụ thờ cúng vua cùng dòng tộc, tổ chức lễ kỵ, góp phần trùng tu, bảo vệ các lăng tẩm vua Nguyễn. Hàng năm cứ vào tiết thanh minh, Hội đồng phải xin phép Trung tâm bảo tồn di tích cố đô Huế đến dâng hương tại lăng. Khi đoàn làm phim tiến hành quay tại lăng Minh Mạng, đã không có ai bàn bạc, hỏi ý kiến của hội đồng này.

Đoàn làm phim chỉ biết được việc của mình?

Phòng ngủ dành cho vua Lý Huệ Tông và Hoàng hậu trong phim được dựng lên nơi thờ vua Minh Mạng và Hoàng hậu Hồ Thị HoaBộ phim truyền hình 30 tập Thái sư Trần Thủ Độ (tên cũ là Trần Thủ Độ và người tình) - Hãng phim truyện I được nhà nước đặt hàng với kinh phí 53 tỷ đồng, đạo diễn Đào Duy Phúc, khi thực hiện một số cảnh quay ở Huế đã dùng các di tích, lăng tẩm triều Nguyễn làm bối cảnh cho phim.
Nửa tháng nay, toàn bộ Long vị vua, bàn thờ Hoàng hậu Hồ Thị Hoa, cùng con, cháu vua đã bị dẹp bỏ khỏi điện thờ chính để làm bối cảnh của trường quay. Hỏi nhiều người trong đoàn làm phim là có di dời án thờ, sắp xếp lại chánh điện hay không thì ai cũng trả lời là có. Nhưng khi hỏi đạo diễn Đào Duy Phúc về việc làm như vậy đúng không thì được trả lời: “Tôi đang bận quay phim, xin các anh đợi”.
Cảnh quay trong phim Trần Thủ Độ thực hiện tại lăng Minh Mạng tái hiện lịch sử năm 1210 khi Trần Thủ Độ phò Thái tử Sảm lên ngôi vua (tức là Lý Huệ Tông). Cảnh này thuộc về đời Lý nhưng lại thực hiện trong di tích, lăng tẩm của một ông vua nhà Nguyễn thì không hợp lý xét về góc độ lịch sử (cách nhau gần 600 năm) cũng như kiến trúc của 2 triều đại hoàn toàn khác nhau.
Xét về mặt con người, Minh Mạng là một ông vua quyết đoán, năng động, có nhiều công lao trong cải cách nội trị đến ngoại giao, lập ra Nội các và Viện cơ mật ở Kinh thành Huế, bỏ việc lập các dinh để lập tỉnh (cả nước có 31 tỉnh).


Các “cung nữ” thả sức chụp ảnh trong giờ giải lao ngay chỗ thờ vua Minh Mạng.
Quân đội dưới triều vua này rất hùng mạnh, được tổ chức chuyên nghiệp, dẹp trừ nhiều cuộc nội loạn. Vua tinh thông Nho học, sùng đạo Khổng Tử; quan tâm đến việc học, thi cử khi mở Quốc Tử Giám. Về đối ngoại, chủ trương mở rộng bờ cõi khi đặt tên nước là Đại Nam vào năm 1838. Trần Thủ Độ mặc dù có công phò vua Lý Huệ Tông nhưng sau đó phế truất vua này, dàn xếp chính trị đưa Trần Cảnh lên làm vua, lập ra nhà Trần.
Nếu như tất cả các đoàn làm phim lịch sử về Huế đóng phim mà dùng các lăng tẩm, di tích làm cảnh quay thì sự tôn nghiêm, linh thiêng còn ở chỗ nào nữa? Những ông vua, chúa hay các bậc tiền nhân và những người đang sống hôm nay có lẽ không muốn bị đối xử như vậy.

Cơ quan chức năng: Phim đã được Bộ duyệt quay rồi

Phim thể hiện bối cảnh lịch sử đời Lý nhưng thực hiện tại lăng vua nhà Nguyễn.Nhiều du khách phàn nàn về cách xử sự của đoàn làm phim cũng như cơ quan chức năng đã cấp giấy phép để đoàn thực hiện cảnh quay tại lăng Minh Mạng. Ông Nguyễn Phước Bảo Hùng (51 tuổi, ở TP.Huế) bức xúc: “Huế là đất thần kinh – đất vua, có truyền thống văn hóa, coi trọng tâm linh nhưng lại xảy ra sự việc như vậy đúng là động trời”…
Khi chúng tôi hỏi vấn đề toàn bộ Long vị, án thờ tại lăng Minh Mạng bị đoàn phim di dời để làm trường quay thì các cơ quan chức năng vẫn cho rằng đó là phim của Nhà nước đặt hàng, được cấp phép.
Ông Phùng Phu, Giám đốc Trung tâm Bảo tồn di tích cố đô cho biết: “Phim này được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã phê duyệt thực hiện cảnh quay. Việc đoàn làm phim thực hiện tại lăng Minh Mạng và có di dời hiện vật như vậy nhưng họ sẽ trả lại nguyên trạng như ban đầu. Nếu quay ở lăng khác cũng làm như vậy thôi. Không lẽ cấm không cho họ làm?”. Ông Ngô Hòa, Phó chủ tịch UBND tỉnh cũng trả lời là đoàn phim sẽ trả lại nguyên trạng như ban đầu (?)
Nửa tháng hoạt động của đoàn làm phim có lẽ đã để lại rất nhiều bất bình, phản cảm trong con mắt nhiều du khách trước một di tích nằm trong quần thể di tích Cố đô Huế được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới và thu hút khách du lịch đứng thứ 2 sau lăng Tự Đức!


XÚC PHẠM NƠI TÔN NGHIÊM,MỘT VIỆC LÀM VÔ VĂN HÓA CỦA NHỮNG NGƯỜI LÀM QUẢN LÝ VĂN HOÁ (*)

Ý kiến nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân
Nhà nghiên cứu văn hóa Nguyễn Đắc Xuân bức xúc: “Đây là một hoạt động văn hóa nhưng cách làm của đoàn làm phim liệu đã có văn hóa chưa khi ngang nhiên xúc phạm di tích, lăng tẩm như vậy. Cho dù có được cấp giấy phép đi nữa thì ai dám dịch chuyển nơi thờ tự của một ông vua? Ai cấp giấy phép cho đoàn làm phim này thì phải chịu trách nhiệm.
Chúng tôi sẵn sàng đối chất, tranh luận đến cùng cho dù là cấp, cơ quan nào đã cấp giấy phép mà không hiểu rõ văn hóa, tâm linh ở Huế. Thiệt thòi thì người dân và chính quyền Thừa Thiên - Huế phải gánh chịu rất nặng. Còn người ngoại quốc sẽ thấy một kiểu làm phim rất ẩu của chúng ta. Nếu cứ làm phim như vậy sẽ mở ra tiền lệ cho mai sau là các đoàn làm phim khi đến Huế quay cũng đều làm xáo trộn lăng tẩm, di tích. Sự tôn kính, linh thiêng, đối với vua chúa, bậc tiền nhân… liệu có còn nữa không?”.
Từ cuối tháng Ba đến nay, đoàn làm phim quay tại lăng Minh Mạng nhưng Trung tâm Bảo tồn di tích cố đô vẫn bán vé cho du khách vào tham quan. Trung tâm này lại chính là cơ quan có chức năng bảo vệ, trùng tu di tích, lăng tẩm, đền đài… đã được UNESCO và nhà nước công nhận. Nhiều du khách trong và ngoài nước cảm thấy bất bình vì bị cấm chụp ảnh khi vào xem di tích. Họ bỏ tiền ra mua vé để xem di tích chứ không phải xem phim trường.
Nơi thờ vua Nguyễn bị biến thành phòng ngủ của vua Lý như thế này ư?

Nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân cho biết thêm: “Đúng là một sự xúc phạm lên lăng tẩm, di tích cũng như văn hóa, hơn nữa đây là nơi thờ vua, rất tôn nghiêm. Đóng phim cho dù thực hiện mục đích nào cũng không được xúc phạm lên văn hóa thiêng liêng ở đất vua – đất thần kinh xứ Huế như vậy được. Phim lịch sử dù được nhà nước đặt hàng cũng cần thực hiện cảnh quay đúng chỗ, đúng lúc và phù hợp với văn hóa.
Sự việc này đã đẩy chính quyền địa phương và Trung tâm Bảo tồn di tích Cô đô vào khó khăn. Hiện tại, mọi trả lời của chính quyền địa phương chỉ là để đối phó với một tai nạn do cố ý đã xảy ra. Những người làm phim không chỉ tuân theo Pháp luật mà phải cần biết “Tòa án lương tâm”, sự hiểu biết văn hóa đất nước nói chung và của mỗi địa phương nói riêng”.

Nhà văn Bửu Ý :Không thể tin được
Nhà văn, nhà nghiên cứu Bửu Ý không thể tin được điều mình đã đọc trên báo. Ông cho biết: “Ở Huế, có rất nhiều nơi có thể làm trường quay phim đúng với tinh thần của phim lịch sử chứ không phải đến chỗ thờ tự của vua rồi làm mất đi sự linh thiêng, tôn nghiêm như vậy. Nếu Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã phê duyệt bộ phim này rồi thì chính quyền địa phương và cơ quan chức năng cần góp ý khi thấy sự việc gây nguy hại đến văn hóa ở địa phương.
Nếu đoàn làm phim đã được cấp phép thực hiện cảnh quay tại lăng thì cũng phải liên hệ với Hội đồng trị sự Nguyễn Phước tộc – là dòng dõi, hậu duệ nhà Nguyễn (đằng này, “Đoàn làm phim đã không liên hệ với chúng tôi”– ông Tôn Thất Vĩnh Bào, 72 tuổi, Chủ tịch Hội đồng Trị sự Nguyễn Phước tộc tại Huế cho biết”.
Thầy Vĩnh Quả, giáo viên trường THPT Phan Đăng Lưu (Huế) cho biết: “Những người làm phim nên lắng nghe dư luận, đừng để đến khi làm rồi gây bất bình, xôn xao trong quần chúng. Làm phim kiểu như vậy thực sự gây bức xúc đối với nhiều người dân và du khách”.
Dư luận đang rất cần lời giải thích của chính quyền địa phương và các cơ quan chức năng.
Sự việc “động trời” như vậy nhưng Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thừa Thiên – Huế lại chưa biết. Khi chúng tôi liên hệ thì giám đốc Sở bận đi họp, ủy quyền cho Phó giám đốc Nguyễn Quốc Thành trả lời: “Chúng tôi chưa nhận được thông tin về việc đoàn làm phim về Trần Thủ Độ dọn dẹp nơi thờ tự vua Minh Mạng để làm trường quay” (?)
Theo Nguyên Bình(VietNamNet)
(*) Đầu đề do HTTV đặt

LỜI BÀN CỦA HỢP TUYỂN THƠ VĂN:


Huế hết người hay sao mà xài những tên vô văn hoá làm công việc quản lý văn hoá ?
Đuổi cổ chúng về nhà vì chúng đâu có liêm sĩ để từ chức!

VIỆT NAM HỒ SƠ HẬU CHIẾN (kỳ 19)

VIỆT NAM
HỒ SƠ HẬU CHIẾN
1975 - 2010
NHỮNG SỐ PHẬN KỲ LẠ
Kỳ Mười Chín

191 - Hoàng Ngọc Đảm
LIỆT SĨ ĐƯỢC GIẢI OAN
Bộ đội sinh khoảng 1944 tại Thái Bình – Hy sinh 1969 ở miền Nam (25 tuổi).
Mới lấy vợ được 6 ngày thì lên đường vào chiến trường miền Nam. Tại đó năm 1968 trong chiến dịch Mậu Thân tại Pleyku đã bị lính Mỹ bắn chết trong một trận chiến nhưng mất xác nên ở quê nhà, gia đình bị mang tai tiếng là anh đã ra “chiêu hồi” rồi chạy qua Mỹ sống giàu sang!
Sau 75 gia đình có đi tìm tin tức mong tìm được dấu tích đều không kết quả.
Nhưng không ai ngờ những dấu tích đó lại đúng là đang ở Mỹ thật song chỉ là những di vật – sổ tay, giấy tờ, bút tích – được chính người lính Mỹ năm xưa từng bắn chết mình – tên Homer Steedy - lục thấy trong tư trang anh và đã gửi về Mỹ cho mẹ mình lưu giữ với hy vọng mong manh một ngày nào đó tìm trả lại cho thân nhân “kẻ thù” mà mình đã hạ sát. Sở dĩ gửi về trước vì chính H. Steedy cũng không biết mình còn sống sót trở về hay không.
Tuy nhiên cuối cùng thì người lính Mỹ kia đã sống sót trở về Mỹ với chứng bệnh trầm uất “Hội chứng VN” quen thuộc của giới cựu binh Mỹ tham chiến ở VN. Chính bà mẹ đã giúp anh chữa trị chứng bệnh chấn động tâm lý chiến tranh này bằng lời khuyên con hãy tìm cách trả lại các di vật trên cho gia đình người đã chết như một lời sám hối rửa sạch mặc cảm cho bản thân. Bà đã bỏ hết số tiền dành dụm cả đời của mình để cho con vừa chữa bệnh vừa lo việc quay lại VN trả món “nợ máu” ngày nào.
Thế rồi nhờ sự trợ giúp của 2 nhà báo cựu binh Mỹ, rốt cuộc H. Steedy đã tìm đến tận nhà gia đình liệt sĩ để trao lại số di vật trên với nỗi lo lắng sợ bị “trả thù”. Nhưng ông đã nhận được sự tha thứ từ những gịọt nước mắt lặng lẽ muộn màng của những người em và cả người “vợ 6 ngày” của liệt sĩ nay vẫn ở vậy phụng dưỡng bố mẹ chồng.
Từ đó với sự chỉ dẫn của Steedy tìm về địa điểm liệt sĩ hy sinh ở Gia Lai – cộng sự giúp đỡ của nhà ngoại cảm Phan Bích Hằng - năm 2008 gia đình đã tìm được mộ liệt sĩ.
Nhưng chưa hết, quá trình đưa hài cốt liệt sĩ – có người bạn Mỹ đi theo chứng kiến và thắp hương cúi đầu khấn nguyện - là cả một thiên bi hài kịch về bệnh quan liêu vô cảm do mộ nằm trong một nghĩa trang cấp huyện dành cho liệt sĩ “vô danh” nên theo quy định cấm khai quật di dời. Bởi vậy gia đình phải tìm cách… “đánh cắp” mộ, thuê người đang đêm bí mật đào mộ “chui” để mang thi hài về quê ở gần với bà con ruột thịt!

192 - Huỳnh Tấn Mẫm
" BÁC SĨ CHÍNH TRỊ"
Cán bộ về hưu tên thật Trần Văn Thật sinh 1943 tại Sài Gòn. Sống ở TPHCM (2010).
Lãnh tụ sinh viên đấu tranh chống Mỹ - Ngụy nổi tiếng ở miền Nam trước 75 chính là một đảng viên cộng sản hoạt động nằm vùng ở Sài Gòn.
Sau 75 học tiếp y khoa ra bác sĩ rồi được cho đi học Liên Xô tốt nghiệp triết học Mác Lênin chuẩn bị tiếp tục con đường hoạt động chính trị. Vì thế trở về TPHCM sáng lập và làm tổng biên tập báo Thanh Niên năm 1986 kiêm thành viên Mặt trận Tổ quốc, Hội Liên hiệp thanh niên.
Nhưng con đường hoạn lộ từ đây có vẻ chẳng được hanh thông mấy bởi một số sự cố ngoài ý muốn. Vì thực tế sau 75 cho thấy quan điểm tự do dân chủ “tư sản” được giới sinh viên, trí thức miền Nam theo đuổi trước đây khác với chủ trương tự do dân chủ cộng sản áp dụng trong nền chuyên chế xã hội chủ nghĩa – cũng như khái niệm “đấu tranh” giờ chỉ cho phép diễn ra trong “nội bộ” khó mà làm được - khiến gây thất vọng cho cả những trí thức sinh viên miền Nam chống Mỹ chống Thiệu - Kỳ trước đây. Cho nên vào đầu thời Đổi mới có vẻ anh đã có một số biểu hiện nào đó bị đánh giá “đi lệch hướng” hoặc không được lòng Nhà nước.
Đã vậy, bên cạnh đó còn xảy ra chuyện tai tiếng đời tư là vợ – con một cán bộ cao cấp – làm chủ hụi bị tố cáo… giựt hụi! Vợ phải ra toà lãnh án đã đành, chồng còn bị kêu ra làm nhân chứng liên quan mất uy tín (sau đó ly dị thôi).
Thế là bị “đảo chính” khỏi báo Thanh Niên năm 1990, chuyển về Hội Chữ thập đỏ TP bây giờ làm công tác chuyên môn thuần túy của một bác sĩ phụ trách phòng mạch miễn phí, ngoài giờ thì mở phòng mạch tư chuyên săn sóc… da, mụn cho phụ nữ! Không còn được mấy ai biết tới nữa bởi thực sự cũng tự nhận nghề y không giỏi do thời sinh viên quá bận bịu việc tranh đấu không có thì giờ học hành. Từ đó mới bị gán cho là “bác sĩ chính trị”!
Có thể hiểu biệt danh trên theo nhiều nghĩa: Nhờ chính trị mà thành bác sĩ hoặc vừa là bác sĩ vừa là nhà chính trị hoặc thậm chí ngược lại, bác sĩ nửa vời mà nhà chính trị cũng nửa vời! Nhưng nó như gói trọn trong đó bao tâm sự khá cay đắng của một thủ lĩnh sinh viên nhiệt huyết một thời vang bóng đã từ từ suy tàn theo thời cuộc: “Gần như trong cuộc đời hoạt động chân chính của mỗi người, chính trị hay từ thiện xã hội đều có những lúc thăng trầm, thậm chí đau khổ vô cùng. Họ cảm thấy thiếu công bằng trong đối xử với họ, thiếu được bảo vệ khi họ đấu tranh nên họ dễ chán nản, tiêu cực, mệt mỏi. Riêng tôi mỗi lần như vậy, trước hết phải nhìn lại mình đã làm được việc gì, hãy quên chuyện đã qua và tìm một lối thoát vươn lên vượt khó…”
Lối thoát đó là hướng về công tác từ thiện, giúp Hội Bảo trợ bệnh nhân nghèo TPHCM vận động mổ tim cho trẻ em bất hạnh, gầy dựng phong trào hiến máu nhân đạo sau khi về hưu vẫn tiếp tục làm.

193 - Mi Dôn
NGƯỜI PHỤ NỮ 9 CHỒNG

Nữ y tá người dân tộc Jarai sinh 1961 tại Đắc Lắc. Sống ở Gia Lai (2003).
Trước 75 chồng làm thông dịch viên cho Mỹ rồi sau chuyển về làm việc tại Tòa Đại sứ Mỹ ở Sài Gòn. Đến 30.4.75 chồng bỏ di tản qua Mỹ mất liên lạc luôn.
Còn lại một mình quay lại buôn làng ở Gia Lai rồi nhờ có trình độ tương đối (nói tiếng Anh giỏi nhờ thời gian chồng làm việc cho Mỹ) nên được cử đi học khóa y tá trở về trở thành “bàn tay vàng” đỡ đẻ suốt 25 năm qua. Ngoài công tác y tá, đỡ đẻ không lấy tiền còn giúp dân làng làm quen với nếp sống văn minh hơn.
Sau người chồng đầu theo Mỹ bỏ nước ra đi, đã lần lượt bỏ tiền cưới chồng thêm đến… 8 người nữa! Theo luật lệ buôn làng theo chế độ mẫu hệ việc này được cho phép miễn là tuân theo phong tục bỏ chồng phải có lý do chính đáng và làm giấy công khai được buôn làng chấp nhận. Trong 8 người chồng mới có người bệnh chết, có người chia tay, chỉ người chồng sau cùng lấy năm 1999 là người kinh. Sinh được 6 con đều do mình “tự đỡ đẻ”. Ở vùng này cũng có cả 10 trường hợp lấy từ 5 chồng trở lên
Nói chuyện chồng con chỉ cười: “Có người nói mình lấy 10 chồng, mình lấy đâu ra mà nhiều chồng thế? Chỉ có 9 chồng thôi. Mình phụ nữ mà, phải có quyền chứ!”

194 - Minh Chuyên
NHÀ BÁO SUÝT RẠCH BỤNG BẢO VỆ SỰ THẬT
Phóng viên đài truyền hình sinh 1942 tại Thái Bình. Sống ở Hà Nội (2010).
Bộ đội 10 năm chiến đấu, bị thương trên chiến trường miền đông Nam bộ. Sau 75 xuất ngũ thương binh 18% về làm phóng viên báo Thái Bình bắt đầu chuyên tâm khai thác đề tài nỗi đau thời hậu chiến như cuộc đời người lính bị quên lãng, nạn nhân CĐDC…
Năm 1997 chuyển qua Đài Truyền hình VTV. Đã viết gần 100 bút ký, truyện ngắn, kịch bản phim và đạo diễn 25 bộ phim tài liệu về mảng đề tài trên trong đó có những tác phẩm được dư luận hết sức quan tâm, khâm phục như “Thủ tục làm người còn sống” (1988), “Người không cô đơn” (1993), “Tiếng vọng cửa chùa”, “Cha con người lính” (giải thưởng Liên hoan Phim Seoul 2005 ở Hàn Quốc, giải thưởng Liên hoan Phim Bình Nhưỡng 2006 của CHDCND Triều Tiên), “Nỗi đau người chưa chết”, “Linh hồn Việt Cộng” (2008)…
Đặc biệt nổi cộm gây sốc dư luận là bút ký “Thủ tục làm người còn sống” đăng báo Văn Nghệ thời mở đầu Đổi mới năm 1988 viết về một thương binh chiến trường Campuchia bị lạc đơn vị trở về quê hương Thái Bình hơn 10 năm bị bỏ rơi không ai quan tâm giúp đỡ, giải quyết chế độ. Bài báo đã gây phản ứng từ giới quan chức chế độ nên bị gán tội viết sai sự thật bôi bác chế độ, kích động quần chúng tuy đương sự trước đó từng được trao tặng giấy khen, huân chương! Suốt 6 tháng ròng rã bị họp “tường trình, kiểm điểm” các cấp liên miên, bị “đánh” tơi tả tới mức người ta phải đồn là bị cấm viết, đình chỉ công tác, khai trừ Đảng, thậm chí hoảng quá đã… nhảy sông tự tử!
Thực tế thì cũng có lần suýt tự tử rồi, tự tử ngay tại buổi họp “hài tội” với mục đích chứng minh mình trong sạch, công tâm, tất cả điều mình viết đều là sự thật. Cho nên khi đến họp đã thủ một con dao sẵn sàng vén áo rạch bụng ngay tại chỗ: “Tôi là người lính đã 10 năm trận mạc, tôi hiểu cái giá của máu xương nhưng đến nước này tôi phải chấp nhận hy sinh. Đó là cách duy nhất để người cầm bút như tôi tự vệ.”
May mà cuối cùng Bộ Quốc phòng vào cuộc điều tra công nhận “Thủ tục làm người còn sống” viết đúng sự thật. Nhưng còn thủ tục giải quyết chế độ cho nhân vật thương binh kể trên mãi đến năm 2007 mới được chính thức thực hiện.

195 - Minh Hiền
VƯỢT QUA BỆNH UNG THƯ
Nhà báo tên thật Nguyễn Thị Minh Hiền sinh tại miền Nam. Sống ở TPHCM (2010).
Trở về từ chiến khu sau 75 tham gia làm báo phụ nữ ở TPHCM.
Nhưng do tham gia đấu tranh chống tiêu cực trên báo hơi “quá đà” nên năm 1996 buộc phải chuyển công tác. Qua báo khác không được bao lâu cũng ra đi vì lý do “đấu tranh nội bộ” tương tự. Cuối cùng năm 1999 chấp nhận làm một tờ báo chuyên về kinh doanh “phi chính trị” nhưng hầu như phải bắt tay xây dựng lại từ đầu. Kết quả thành công tuy nhiên đây lại là một tờ báo chuyên ngành doanh nghiệp TPHCM nên hết… chống tiêu cực!
Đáng chú ý khi vừa nắm tờ báo trên thì bất ngờ lại vướng phải bệnh ung thư hiểm nghèo đã đến gia đoạn di căn chỉ chờ ngày chết bỏ lại con thơ, thế mà vẫn vươn lên chống chọi trải qua một năm điều trị vật vã – mổ và hóa trị - rồi tiếp tục lao vào làm báo kéo dài đến bây giờ (về hưu 2009) so với hồi đầu chỉ ước được sống thêm 5 năm để nuôi con khôn lớn. Bác sĩ cũng bất lực không giải thích được “phép lạ” kỳ diệu này mà chỉ cho là nhờ chị “sống lạc quan tích cực, cống hiến không ngơi nghỉ làm nên”.
Chẳng những thế, còn cho phép công khai căn bệnh của mình để mọi người biết giúp họ cách thức chữa bệnh đồng thời từ đó xây dựng chương trình trợ giúp bệnh nhân ung thư. Và cũng là người nêu sáng kiến tổ chức “Ngày Doanh nhân VN 13.10” hàng năm kể từ năm 2006.

196 - Minh Kỳ
CHẾT OAN TRONG TRẠI CẢI TẠO
Nhạc sĩ tên thật Nguyễn Phước Vĩnh Mỹ sinh 1930 tại Nha Trang – Mất 1975 ở VN (46 tuổi).
Trước 75 là nhạc sĩ “ăn khách” ở miền Nam với thể loại nhạc tình phổ thông rất phổ biến nhờ nội dung lãng mạng nhẹ nhàng và giai điệu ngọt ngào dễ hát như “Ai nói với em”, “Chuyện hai người”, “Đà Lạt hoàng hôn”…. Sau đó còn tham gia thành lập nhóm Lê Minh Bằng kết hợp phong cách âm nhạc ba miền (gồm thêm hai nhạc sĩ Lê Dinh quê Tiền Giang và Anh Bằng quê Hà Nội) nhằm phát triển dòng nhạc đó.
Đặc biệt nổi bật hai đề tài hoài niệm Huế quê hương của ông vốn gốc hoàng tộc (“Mưa trên phố Huế”, “Thương về xứ Huế”…) và nhạc “lính Cộng hòa” (“Biệt kinh kỳ”, “Anh tiền tuyến em hậu phương”, …). Bên cạnh đó còn bài nhạc xuân nổi tiếng “Xuân đã về”.
Vì là sĩ quan cảnh sát nên sau 30.4.75 phải đi cải tạo và không may chết trong trại cải tạo một cách oan uổng chỉ bốn tháng sau (chưa biết cụ thể ở đâu). Theo kể lại thì lúc đó xảy ra một vụ mâu thuẫn nội bộ trong các quản giáo ở trại đưa đến một cuộc “xung đột” làm nổ lựu đạn và ông xui xẻo ở gần đó ? thiệt mạng lây tuy mình chẳng hề dính líu gì!
Một con người quá đỗi tài hoa mệnh bạc (để lại vợ và đến 9 người con) không bù cho hai người bạn thiết Lê Dinh và Anh Bằng đã kịp thờø lánh nạn qua Canada và Mỹ.

197 - Mirei Lehmann
“VIETNAM – CON NGƯỜI THỨ HAI CỦA TÔI’
Nhà nhiếp ảnh chuyên nghiệp sinh 1966 tại Sài Gòn. Sống ở Thụy Sĩ (2009).
Mới mấy tháng tuổi đã bị cha mẹ đem gửi cô nhi viện - có lẽ do hoàn cảnh sống khó khăn trong thời chiến tranh loạn lạc - rồi được một đôi vợ chồng người Thụy Sĩ nhận làm con nuôi đem về nước.
Lớn lên thành đạt, làm giám đốc một trung tâm truyền thông, có nhiều triển lãm ảnh đoạt giải thưởng quốc tế. Nhưng trong sâu thẳm vẫn thôi thúc một tiếng gọi tìm về cội nguồn. Từ đó đã tìm đọc sách về VN, học tiếng Việt, tìm Việt kiều để làm quen…
Rồi quyết định về quê hương VN với ước mơ cháy bỏng tìm kiếm cha mẹ ruột. Nhưng đã hơn 10 lần qua lại VN vẫn chưa tìm ra được gốc tích gia đình cũ của mình.
Dù vậy, thay vào đó đã tìm cách san sẻ tình cảm yêu thương của mình bằng những hoạt động, dự án về VN, dành cho VN như dự án ảnh “Vietnam – Con người thứ hai của tôi” được trưng bày tại Nhà Đông dương ở Paris, Pháp. Hoặc các dự án triển lãm ảnh và in sách “From another part” (Từ một phần đời khác), “Here and there” (Đây và đó), “Hello & goodbye” (Xin chào và tạm biệt) đều về mảng đề tài VN thực hiện năm 2008 tại Thụy Sĩ. Đến năm 2009 là bộ phim ngắn mang tựa đề “Le coeur au bord des yeux” (Trái tim nơi ánh mắt) làm ngay ở VN với nội dung kể về một câu chuyện tình giữa một chàng trai Châu Âu với một cô gái VN.
Cùng lúc cuộc tìm kiếm bố mẹ ruột của mình vẫn tiếp tục chưa biết đâu là đoạn kết và đoạn kết có hậu hay không: “Tôi biết bố mẹ tôi rất yêu tôi và chắc chắn họ phải có một lý do nào đó để cho đứa con của mình đi. Tôi chỉ muốn nói rằng dẫu quá khứ có như thế nào thì thực sự tất cả những điều tôi nghĩ bây giờ chỉ là một sự mong mỏi nhỏ nhoi. Sự mong mỏi được một lần gặp lại người sinh ra mình, được ôm họ và một lần được kêu lên hai tiếng “Mẹ ơi”. Sao điều nhỏ nhoi đến vậy mà đã bao năm qua tôi vẫn chưa làm được?”

198 - Nam Lộc
TỪ NHẠC SĨ THÀNH NHÀ HOẠT ĐỘNG XÃ HỘI
Nhà hoạt động xã hội tên thật Nguyễn Nam Lộc sinh 1946 tại Miền Bắc. Sống ở Mỹ (2010).
Trước 75 là nhạc sĩ thuộc dòng nhạc trẻ đô thị, nhà hoạt động văn hóa trong phong trào văn nghệ sinh viên Sài Gòn “trung lập” cùng thời với những Lê Hựu Hà, Đức Huy, Elvis Phương, Tuấn Ngọc… Ra đi từ 30.4.75 đến Mỹ làm ca khúc “Sài Gòn vĩnh biệt” nổi tiếng trong cộng đồng hải ngoại thời đó.
Tại Mỹ trở thành nhà hoạt động xã hội đứng đầu cơ quan thiện nguyện IRCC với các hoạt động đa dạng hướng về việc giúp đỡ, cứu trợ, phục vụ người Việt nhập cư suốt hơn 30 năm qua. Được cộng đồng đánh giá cao, được chính quyền Mỹ tuyên dương, tặng nhiều giải thưởng về công tác phục vụ cộng đồng, giúp người Việt hòa nhập với xã hội Mỹ.
Chưa một lần về nước dù thi thoảng từng bị các phái cực đoan ở hải ngoại cho là có lập trường không đủ mức cứng rắn với Nhà nước VN hiện tại vì quan điểm “Quá khứ dù buồn thảm đến đâu, dù có hận thù thế nào thì vẫn là lịch sử. Mà lịch sử thì cần phải ghi nhận một cách trung thực và đúng đắn. Cần phải lưu giữ và lại càng phải lưu truyền.”

199 - Nancy Bùi
SƯU TẦM CÂU CHUYỆN THUYỀN NHÂN
Tên thật Đoàn Thị Bùi. Sống ở Mỹ (2007).
Trên đất Mỹ đã cất công đi thu thập, ghi chép vô số mẩu chuyện về thuyền nhân VN vượt biên được hơn 200.000 trang giao cho Trung tâm VN ở ĐH Texas lưu giữ. Vì tâm nguyện: “Nếu chúng ta không viết lại lịch sử mình đã sống qua, khi chúng ta qua đời thì khoảng lịch sử này sẽ trống lốc.”

200 - Ngọc Duệ
“NỢ ĐỜI” DƯỚI MÁI CHÙA
Thường dân tên cũ Võ Thị Mỹ Phượng sinh 1968 tại Gia Lai. Sống ở TPHCM (2008).
Bố mẹ đều là cán bộ nên sinh ra trong chiến khu. Đến năm 1971 mới 3 tuổi thì bị quân đội chế độ cũ bắt đi trong một trận tấn công vào mật khu cách mạng lúc bố mẹ đều đi công tác vắng mặt. Bé được chụp ảnh in lên truyền đơn rải xuống kêu gọi bố mẹ ra đầu thú.
Tuy nhiên, công tác tuyên truyền chiêu hồi đó thất bại nên bé bị đưa về giam ở nhà tù Pleiku không còn ai chú ý nữa. Một sĩ quan chế độ cũ – người phụ trách việc thẩm vấn tù binh Việt cộng ở đây - có từ tâm biết chuyện thấy tội nghiệp tìm cách đưa ra ngoài rồi đem đến gửi cho một tịnh xá Phật giáo (toàn giới ni sư, ni cô) nhờ nuôi giùm chỉ với lời dặn ngắn gọn “Con cộng sản nòi”. Các ni cô sợ bị phát hiện nên cho cạo trọc đầu bé rồi đặt pháp danh Ngọc Duệ – tên một công chúa triều nhà Trần - xem như một ni cô đi tu từ từ nhỏ để tránh bị truy ra tông tích. Sau đó vẫn sợ nên chuyển bé về một tịnh xá khác ở Sài Gòn rồi một tịnh xá khác nữa vẫn ở Sài Gòn.
Từ đó được tịnh xá săn sóc nuôi dưỡng, lớn lên dưới mái chùa nhưng không quy y luôn vì thâm tâm biết mình con mồ côi vẫn mong một ngày tìm ra người thân ruột thịt – tự nhận là “nợ đời con còn lớn lắm” – nên chỉ vừa đi học vừa phụ giúp việc vặt trong chùa. Chính vì cái “nợ đời” ấy mà sau khi tốt nghiệp cấp ba năm 1997 được một suất học bổng đi Mỹ song từ chối vì muốn “ở nhà để tìm cha mẹ”, sợ đi xa cha mẹ đi tìm không gặp.
Sau đó được một gia đình ở gần tịnh xá cảm thông nhận làm con nuôi. Lúc đó mới rời nhà chùa theo cha mẹ nuôi ra ngoài làm nghề buôn bán cửa hàng lớn ở trung tâm thành phố.
Trong lúc đó sau 75 bố mẹ từ Gia Lai đổ ra đi tìm con khắp các cô nhi viện, đăng tin trên báo, thậm chí nhờ cả nhà ngoại cảm lẫn Đại sứ quán Mỹ giúp đỡ (tìm trong danh sách chiến dịch Babylift đưa trẻ em mồ côi VN bay qua Mỹ trước 30.4) nhưng đều vô hiệu. Dù vậy người mẹ vẫn không từ bỏ cuộc tìm kiếm vì “bao đêm nằm mơ thấy con gái vẫn còn sống”.
Cuối cùng bà lên truyền hình VTV nhờ chương trình tìm người thân mất tích “Như chưa hề có cuộc chia ly” giúp đỡ. Đến đây thì cái “nợ đời” bí ẩn kia mới hé lộ: Đứa con gái kia lâu nay do không có thì giờ rảnh chưa hề xem chương trình nhưng tối đó được người anh nuôi vốn quan tâm tìm cha mẹ ruột cho em nhờ xem giùm vì mình bận việc. Ai ngờ chương trình đó đã gửi đến hình ảnh bà mẹ cùng dấu hiệu nhận dạng “vết sẹo bên đùi phải” giống hệt mình!
Khỏi nói cuộc trùng phùng sau hơn 37 năm hiếm có đã diễn ra trong biết bao nước mắt “vui sao lại buồn” với lời cám ơn đời của người mẹ “Tôi tìm được con rồi dù có chết cũng mãn nguyện.” Món “nợ đời” đã được trả tuy muộn màng nhưng kết quả có hậu.

CAO HUY KHANH
(Còn nữa)

VIỆT NAM HỒ SƠ HẬU CHIẾN (KỲ 18)

VIỆT NAM
HỒ SƠ HẬU CHIẾN
1975 - 2010
NHỮNG SỐ PHẬN KỲ LẠ
Kỳ Mười Tám

181 - Bà Trần Giòn
VỤ THẢM SÁT BỊ QUÊN LÃNG
Nông dân sinh khoảng 1943 tại Quảng Ngãi. Sống ở Bình Thuận (2010).
Đây là vụ máy bay chế độ cũ bỏ bom vào khu dân cư ngày 20.4.75 làm thiệt mạng 19 nông dân ở xã Ba Tuy, tỉnh Bình Tuy cũ (nay là khu phố Lập Hòa thuộc huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình Thuận). Vụ thảm sát chỉ được nhắc nhớ lại gần đây trên báo chí.
Vụ này xảy ra vào buổi trưa khi cả gia đình vợ chồng và 5 con đang ăn cơm trưa, nửa chừng thì bữa cơm hết mắm nên bà vợ vội bỏ đi ra ngoài mua thêm mắm. Ai ngờ khi quay lại thì căn nhà đã cháy tiêu tan hoang chôn vùi chồng con trong đó đứa nhỏ nhất mới 3 tuổi!
Cả xóm chỉ có 3 người sống sót. Những người chết đa số không toàn thây nhưng gia sản bị thiêu cháy hết mà mọi người đều quá nghèo nên đành quấn chiếu chôn xác người thân.
Riêng ngườì phụ nữ tội nghiệp này từ đó đến nay suốt 35 năm đã trở thành điên dại kéo lê cuộc sống trầm uất trong cảnh nửa tỉnh nửa mê. Chẳng ai quan tâm đền bù cho nỗi bất hạnh tận cùng phải gánh chịu một cách oan khuất.
Một “tổn thất ngoài dự kiến” theo một thuật ngữ của các bộ luật. Bởi cho đến nay chưa hề có giải thích nào – và quy trách nhiệm - cho sự cố trên bởi trong bối cảnh những ngày khói lửa chiến dịch giải phóng Miền Nam đang vào đỉnh điểm thì vụ thảm sát này gần chỉ là một biến cố “nhỏ” dễ dàng bị trôi qua trong quên lãng. Trong vùng này lúc đó hầu như rơi vào cảnh hỗn loạn vô chính phủ vì trước đó một ngày Phan Thiết phía dưới đã bị chiếm. Số người sống sót ít ỏi chẳng biết cầu cứu ai, sau đó sợ quá cũng bỏ xứ ra đi luôn. Mãi đến năm 2010 một vài người mới trở về lo việc hốt cốt và di dời mộ người thân bỏ mình trong trận không kích trên.
Chỉ có một giải thích đây là một phi vụ của không lực chế độ cũ nhằm phá hủy thiết bị máy móc để lại khi chuẩn bị tiếp tục rút chạy khỏi Bình Tuy nhắm hướng về Đồng Nai và Sài Gòn. Nhưng lại bỏ bom nhầm địa điểm do quá gấp gáp trong tình thế tâm lý phi công – và cả người ra lệnh từ sân bay Biên Hòa - hoảng loạn sợ bị bắn hạ nên làm lấy lệ cho xong?

182 - Đoàn Thị Luân
TỪ NHÀ TÙ CÔN ĐẢO ĐẾN… TRUNG TÂM DƯỠNG LÃO
Cán bộ về hưu sinh 1932 tại Sài Gòn. Sống ở TP.HCM (2008).
Cả tuổi trẻ thời xuân sắc dành cống hiến cho cách mạng, ở tù 12 năm trong đó để lại ấn tượng kỷ niệm sâu sắc nhất là nhà tù Côn Đảo: “Ở tù Côn Đảo sướng như tiên/ Đánh đập triền miên như đấm bóp/ Nhịn đói triền miên như Phật thiền…”!
Nhờ tinh thần lạc quan như bài thơ bạn tù đó mà sống sót sau ngày giải phóng. Lại tiếp tục lao vào công việc hội phụ nữ, đến lúc về hưu năm 2000 mới sực tỉnh thấy mình không chồng con, không cả một mái nhà cùng gia đình dung thân tuổi già. Đành chấp nhận vào Trung tâm Dưỡng lão Thị Nghè ở TPHCM để nương tựa những ngày cuối đời.
Bài thơ Côn Đảo bấy giờ thỉnh thoảng ngâm nga lại cũng như gượng cười thôi chứ không làm vơi đi nỗi buồn cô đơn, thèm biết bao những tình cảm dẫu của người xa lạ có ai đến thăm mình cũng cố níu kéo ở lại “thêm chút nữa đi con”. Chỉ an ủi rằng “Giờ không nghe tiếng súng tiếng bom là hạnh phúc rồi.”

183 - Huỳnh Văn Thủy
ROBINSON TỰ NGUYỆN
Bộ đội về hưu sinh tại miền Nam. Sống ở TP.HCM (2009).
Nguyên là bộ đội đặc công thủy chiến đấu ở Rừng Sác (huyện Cần Giờ, TP.HCM), khi về hưu sống cùng gia đình ở Quận 7.
Nhưng được một thời gian thấy không thoải mái, cuồng chân bèn cùng đồng đội cũ Phạm Văn Trung – cũng có nhà riêng ở Cần Giờ – bỏ nhà làm một chuyến phiêu lưu ra sống đời hoang dã trên một hòn đảo nhỏ hoang vu biệt lập trên sông Rạch Đĩa thuộc huyện Nhà Bè ngay sát nách khu đô thị Phú Mỹ Hưng cực kỳ tân thời tráng lệ.
Hòn đảo có chủ ở trong đất liền bỏ hoang từ lâu nên sẵn lòng bán lại cho một miếng đất nhỏ để cất chòi lá dừa nước tạm bợ qua ngày. Cứ thế 2 người bạn già đêm ngày cùng nhau sống đời “Robinson trên hoang đảo” thoải mái tránh xa ánh đèn đô thị, làm lụng sinh hoạt bình thường theo cách sống dân dã không điện nước, máy móc, chợ búa, không cần bất cứ một thứ tiện nghi nào của xã hội văn minh hiện đại. Hứng nước mưa để uống, đêm chỉ cần ngọn đèn dầu nhỏ, trông trời hoặc nghe gà gáy bên sông để đoán giờ giấc. Sáng thức dậy sớm uống trà ngắm cảnh trời sông mây nước rồi đi câu, đi ghe giăng lưới bắt tôm cá, nuôi cá, bẫy chim, trồng rau, tắm sông. Tối về nuớng cá lai rai là thấy sướng cuộc đời quá rồi.
Vài tuần mới về đất liền thăm gia đình một buổi rồi lại quay lại bến cũ tiếp tục đời “ở ẩn”: “Cuộc sống bên kia thành phố ồn ào nhiều va chạm quá nên sang đây sống cách biệt, rời xa đựơc những hỉ nộ ái ố đó. Chỉ có mình với mình, muốn làm gì thì làm…”
Nhưng bên cạnh đó còn một lý do sâu xa: “Chắc do ngày xưa làm đặc công nước suốt ngày ngụp lặn quen mất rồi nên giờ lên bờ là nhớ sông nước. Mỗi lúc bơi trên sông có nhiều cảm xúc lắm, nhớ những ký ức ngày xưa lặn sông đánh giặc…”
Thỉnh thoảng tình cờ gặp lại những đồng đội ngày xưa nay cũng đi ghe bắt cá bắt cua nuôi vợ con trên sông này, thế là tổ chức “hội ngộ cựu chiến binh” trên đảo Robinson “made in VN”.

184 - Kevin
CÁI BỚT TRONG LÒNG BÀN TAY
Việt kiều Mỹ sinh tại An Giang trước 1975. Sống ở Mỹ (2009).
Mẹ vốn là người giúp việc cho một gia đình giàu có bị ông chủ lạm dụng mang thai khi mới 18 tuổi nên khi con mới sinh ra đã bị bà chủ nhà bắt đem đi cho trại mồ côi. Mẹ chỉ kịp nhìn thấy trong lòng bàn tay phải của con trai có một cái bớt màu đen. Sau đó mẹ đã bị mất con mà còn bị đuổi khỏi nhà.
Một năm sau đứa con được một gia đình người Mỹ nhận làm con nuôi đưa về Mỹ, đặt tên Kevin.
Lớn lên nhờ cha mẹ nuôi kể lại đầu đuôi, người con tìm cách liên lạc về nước nhờ chuyên gia Lê Cao Tâm ở TP.HCM chuyên tìm kiếm thân nhân thất lạc trong chiến tranh kết hợp với Hội Chữ thập Đỏ nhờ giúp đỡ.
Kết quả năm 2007 đã tìm thấy tông tích người mẹ nay vẫn còn sống ở An Giang - với chồng và hai con - giúp 2 mẹ con đoàn tụ. Nhờ dấu hiệu nhận nhau chính là cái bớt đen trong lòng bàn tay phải của con nhớ suốt đời.

185 - Mai Giảng Vũ
NGƯỜI RẢI CHẤT ĐỘC DA CAM
Thường dân sinh 1937. Sống ở TP.HCM (2010).
Bị bắt lính chế độ cũ năm 1968 phải lo lót mới được cho vào ngành không quân ở sân bay Biên Hòa đỡ phải cầm súng đi đánh trận dễ chết. Nhưng không ngờ lại bị chuyển qua làm nhân viên không lực đi theo các chuyến bay rải CĐDC của Mỹ mà bản thân mình không hề biết gì.
Đã làm nhiệm vụ đó ít nhất 4 chuyến bay rải chất độc khai quang xuống Long An, Tây Ninh, Quảng Nam, Quảng Ngãi trong khoảng thời gian 1970 – 1972. Đến năm 1973 bị trúng đạn làm hỏng một mắt phải nằm viện một năm rồi được giải ngũ.
Đã lấy vợ sinh được 3 con trai trước 75. Cả 3 con lúc sinh ra đều khoẻ mạnh bình thường nhưng học lên lớp 3 bắt đầu có dấu hiệu bệnh bất thường khó hiểu là bị teo cơ đi đứng không vững, sau đó ngồi cũng không được, đến 15 tuổi là nằm liệt một chỗ.
Một mình ở nhà chăm nom các con suốt 18 năm trời để vợ lo chạy chợ buôn bán kiếm tiền qua ngày nuôi sống cả nhà (lương hưu quân nhân chế độ cũ tất nhiên… hết rồi!). Nhưng mọi nỗ lực cứu chữa 3 con đều vô ích, đến năm 23-24 tuổi các con lần lượt qua đời.
Bấy giờ mới biết được tất cả là do di chứng của CĐDC mà ngay bản thân mình nay cũng đang hứng chịu với đủ loại bệnh viêm da, mũi, họng, bướu tiền liệt tuyến, người chỉ còn cân nặng 40kg: “Tôi đã phải trả giá… Nhiều lần tôi muốn tự tử chết đi cho xong…”
Năm 2009 đã có mặt trong Đoàn VN đến Pháp dự Phiên toàn Công luận quốc tế ủng hộ nạn nhân CĐDC VN tổ chức tại Paris: “Tôi mong linh hồn những nạn nhân đã mất vì CĐDC trong đó có linh hồn các con tôi ủng hộ chúng tôi…”

186 - Mai Thanh Hùng
ĐỘI ĐI TÌM HÀI CỐT LIỆT SĨ “TƯ NHÂN”
Bộ đội xuất ngũ sinh 1943 tại Quảng Trị. Sống ở Quảng Trị (2008).
Là cựu chiến binh chiến trường Khe Sanh, dù xuất ngũ rồi nhưng năm 1989 đã tự phát vận động 11 cựu chiến binh khác trong vùng tổ chức thành một đội đi truy tìm hài cốt đồng đội trong vùng địa đầu giới tuyến một thời nổi tiếng máu lửa khốc liệt nhất này.
Đội gồm 12 cựu chiến binh trong đó 4 người là thương bệnh binh, 11 người đã trên 60 tuổi. Tự bỏ tiền lương hưu ra mua lương thực mắm muối, chiếu màn, vật dụng cuốc xẻng mang theo. Mỗi chuyến đi được trang bị và lên đường với tinh thần đi đến cùng như một cuộc hành quân ngày xưa. Có thể xem đây là một tập thể tư nhân đầu tiên tự tổ chức làm công việc nhân đạo đầy nghĩa tình này.
Ban đầu chỉ đi về trong ngày, mỗi chuyến thu được từ 3 – 10 bộ hài cốt, về sau càng phải đi xa hơn vào vùng rừng núi sâu thẳm. Có khi đến tận biên giới Lào kéo dài đến cả tháng trời, có khi còn gặp cả hổ may mà thoát chết “có lẽ nhờ anh linh phù hộ”.
Sau hơn 20 năm hành trình tự nguyện hết sức vất vả gian khổ như thế đã phát hiện khai quật được khoảng 2.000 bộ hài cốt liệt sĩ đem về quy tập tại các nghĩa trang liệt sĩ ở Quảng Trị – tỉnh thành có nhiều nghĩa trang liệt sĩ nhất nước: 72 NTLS từ cấp toàn quốc đến tận cấp thôn – hoặc báo tin để gia dình đến nhận trong đó 50% xác định được nhân thân, quê quán, đơn vị của người đã khuất.
Cứ thế xa nhà đi biền biệt hàng tháng trời từ năm này qua năm khác, giao chuyện nhà cho người vợ đảm nuôi đến 7 đứa con. Vậy mà vẫn chưa yên lòng, hàng đêm thỉnh thoảng nằm mơ thấy đồng đội cũ hiện về báo mộng chỉ nơi tìm kiếm di hài họ: “Không biết chuyện đó linh thiêng thế nào chứ cứ mỗi lẫn nằm mơ là tôi lại như được tiếp thêm sức mạnh để phấn đấu đi tìm các anh đưa về cho gần nhà gần cửa… Nhưng tôi nay đã 65 tuổi rồi sợ không kịp để đưa hết các anh trở về…”

187 - Mai Văn Du
ĐỜI RÁC LẠI HOÀN ĐỜI RÁC
Lao động nghèo sinh tại TP.HCM. Sống ở TP.HCM (2008).
Cha mẹ làm nghề lượm rác ở bãi rác Đông Thạnh thuộc địa bàn Hóc Môn nên sinh ra ngay tại bãi rác này. Cuối đời sau bao quảng đời bôn ba lận đận lại quay về kiếm sống nơi bãi rác đó.
Nhưng lớn lên từ năm 16 tuổi đã sớm đi theo tiếng gọi cách mạng rồi không may bị chỉ điểm bị bắt trải qua nhiều nhà tù Chí Hòa, Biên Hòa, Bình Dương. Đến 30.4 mới giải thoát trở về bộ đội và lập gia đình.
Đến 1984 mẹ đau nặng nên xin xuất ngũ về chăm sóc mẹ. Mẹ mất gặp thời buổi kinh tế khó khăn nên gia đình sinh ra lục đục, bí quá đành chia tay sau khi giao hết tài sản chút gì còn lại cho vợ con. Trở lại cảnh không nghề nghiệp chẳng biết làm gì mưu sinh đành quay lại nghề cũ “gia truyền” nhặt rác ở bãi rác Đông Thạnh ngày xưa.
Tại đây số phận đưa đẩy gặp một cô gái “đồng nghiệp” dân Nam bộ cảm thông gá nghĩa vợ chồng cùng nhau dựng nên một căn chòi rách nát gần bãi rác tạm bợ sống qua ngày. Một căn nhà “độc đáo” làm toàn bằng… rác phế phẩm từ tường vách ván cũ, mái tôn lợp tranh phế phẩm đến vật dụng trong nhà là “đồ người ta vứt đi nhưng với mình quá quý”! Vậy nhưng vẫn sống đầm ấm tối lửa tắt đèn có nhau nâng đỡ, sinh được một con trai.
Tuy nhiên không bao lâu bãi rác này bị giải tỏa không còn “mối” lớn nữa, chỉ còn ít chỗ chứa rác “ngoài quy hoạch” song vẫn cố gắng “moi” rác lẻ bán sắt vụn cầm cự sống qua ngày để nuôi con ăn học. Nhất quyết không để cho con “đi cắt cỏ cho bò hay đi bới rác theo cha mẹ xót ruột lắm, thà mình nhịn đói còn hơn.”
May mắn đến năm 2008 được một tổ chức từ thiện giúp đỡ cho sửa lại căn chòi thành nhà ở tử tế hơn, cho đứa con chiếc xe đạp cũ đi học. Tất cả niềm hy vọng đặt vào đứa con 4 năm là học sinh giỏi nuôi giấc mơ “Sau này con sẽ làm kỹ sư xây dựng, con sẽ xây nhà to đẹp cho cha mẹ. Con đã thề như vậy ngoài miếu kia rồi…”

188 - Mai Văn Hạnh
ĐÁM TANG KHÔNG HƯƠNG KHÓI
Cựu sĩ quan không quân Pháp sinh khoảng 1936 tại Hà Nội - Mất 2006 ở Mỹ (71 tuổi).
Được quân đội Pháp đào tạo vào quốc tịch Pháp, trước 75 gia nhập quân đội chế độ cũ một thời gian rồi bỏ qua Pháp làm phi công cho hàng không Maroc.
Sau 75 quyết định từ bỏ kiếp giang hồ để nổi máu anh hùng về lại VN âm mưu “phục quốc” chống chính quyền mới. Nhưng chưa làm được gì thì bị bắt năm 1976 ra tòa kết án tử hình. Sau đó được Pháp bảo lãnh cho ra tù sớm năm 1985 đưa về Pháp.
Tất cả hoạt động trên vợ con đều không hay biết gì nên khi về lại Pháp thì vợ chia tay, 2 con gái ở xa cũng mất liên lạc. Còn lại một mình buồn đời nên năm 2006 bỏ qua Mỹ sống nốt quảng đời còn lại trong cô đơn trống vắng với bao nỗi niềm cay đắng tới mức khi chết đã để lại di nguyện “Xin đừng ai hỏi vợ con thân quyến, đừng cho bạn bè biết, được hỏa thiêu trong quan tài bìa cứng đặt trên xe đẩy, không thắp hương đèn…”
Đám tang diễn ra theo ý nguyện đó, lặng lẽ không có người thân đưa tiễn, không thắp hương đèn, nằm trong quan tài bằng bìa cứng đem đi hỏa thiêu trên một chiếc xe đẩy đơn sơ ở xứ người quạnh vắng heo hút.

189 - Mai Xuân Lụa
LỜI THỀ TÌM MỘ
Bộ đội về hưu sinh 1947 tại Thừa Thiên – Huế. Sống ở TT – Huế (2008).
Hơn 20 năm lăn lộn trên chiến trường Trường Sơn, sau khi về hưu vẫn không yên lòng sống đời thanh bình mà luôn thương nhớ đồng đội bỏ mình đâu đó chưa tìm ra thi hài. Có khi nửa đêm đang ngủ bỗng giật mình ngồi dậy la hoảng như gặp ma “Có ai đó gọi tôi!”
Bởi vậy năm 1983 một mình lên đường tìm mộ liệt sĩ trong vùng đất Hương Chữ, Hương Trà mình quen thuộc, có thể là một trong những người đầu tiên tự nguyện làm công việc đền ơn đáp nghĩa này. Để lại việc nhà cho người vợ làm ruộng nuôi ba con trong đó cô con gái đầu èo uột do bị nhiễm CĐDC.
Nhưng vào đầu những năm 80 công việc trên còn tương đối mới mẻ nên muốn làm phải xin phép chính quyền nhiều khi vướng thủ tục khá nhiêu khê phức tạp do người đi tìm mộ phải luồn lách sâu vào các vùng rừng núi trong thời buổi chính quyền còn lo ngại vấn đề an ninh. Vì vậy có lúc ông phải viết bản cam quyết với chính quyền rằng nếu không tìm được mộ thì mình chấp nhận… đi tù!
Trước mỗi chuyến đi đều đến thắp nhang ở nghĩa trang liệt sĩ cầu xin đưa đường chỉ lối song suốt. Sau khi tìm được đem về nhà lại ngày đêm trông ngóng thân nhân sau khi được báo tin đến nhận. Tính đến năm 2008 đã tìm được gần 100 bộ hài cốt liệt sĩ.

190 - Mary Mustard Reed
“HÀNH TRÌNH CON NUÔI QUỐC TẾ”
Việt kiều Mỹ tên cũ Hiền sinh 1957 tại Sài Gòn. Sống ở Mỹ (2008).
Năm 1964 mới 7 tuổi do mẹ nghèo không nuôi nổi nên đã bị mẹ đem cho một người Mỹ làm con nuôi đem về Mỹ với kỷ vật duy nhất là chiếc dây chuyền mẹ đeo vào cổ lúc chia tay.
Từ đó sống trong hoàn cảnh gần như bị cắt đứt với mối dây liên hệ ruột thịt với quê hương cũ: “Tôi cảm thấy như gốc gác mình đã bị tẩy sạch. Không nhớ món ăn Việt có mùi vị thế nào, quên hết tiếng Việt…” Đêm nào cô bé cũng nằm khóc thút thít cho đến khi mệt lã người thiếp đi. Trong thâm sâu từ từ hình thành một vết thương lòng biến thành mặc cảm cho cô bé suốt đời vì sự tổn thương tình cảm, mất mát tình mẫu tử không gì bù đắp được.
Đến khi ra đời làm việc trong ngành dược, ngẫu nhiên định mệnh đưa đẩy công việc đến khu Little Saigon ở California tập trung cư dân VN nên dần dà tìm lại được mối dây liên hệ với nguồn cội quê xưa. Một bác sĩ người Việt đã khuyên muốn chữa trị căn bệnh “lạc mất quê hương” thì hãy đi tìm mẹ. Vì thế năm 1990 mới quyết định nhờ Hội Chữ thập Đỏ giúp tìm lại mẹ mình tuy gia đình cha nuôi cho rằng bà đã chết trong chiến tranh.
Qua năm 1993 nhận được thông tin bà mẹ sau đó đã vượt biên qua Pháp rồi lấy chồng khác có thêm con, cả gia đình hiện sống ở Paris. Nhân một chuyến về thăm lại căn nhà cũ ở Sài Gòn, bà nhìn thấy được thông báo của Hội Chữ thập Đỏ tìm bà dán gần đó nên mới biết mà trả lời với hội. Thế là bà mẹ lập tức bay qua Mỹ gặp lại “bé Hiền” ngày nào sau 29 năm bỏ con, đứa con bé bỏng mà từ ngày ấy tấm ảnh của nó luôn được bà treo ở đầu giường ngủ.
Mẹ con đoàn tụ – cùng 3 cháu ngoại - nhưng nỗi đau tuổi thơ vẫn chưa nguôi, nhất là khi bây giờ giữa đôi bên đã có một hố sâu ngăn cách vì sự khác biệt văn hóa, lối sống, ngôn ngữ. Thậm chí gặp mẹ còn phải thuê cả một người thông dịch tiếng Việt đi kèm!
Vết thương lòng cay đắng thời thơ ấu kia chỉ được hóa giải cuối năm 2006 khi cả 2 mẹ con quyết định quay về quê hương tìm lại căn nhà cũ gợi nhớ bao kỷ niệm đẹp ngày xưa. Tại đó mới tìm lại được sự bình an cho tâm hồn: “Tôi đã học được cách chấp nhận thực tế mà không còn phải trách móc ai…”
Và còn một liệu pháp khác giúp chữa trị căn bệnh tâm hồn: Tham gia một tổ chức từ thiện Mỹ giúp đỡ y tế cho vùng nông thôn VN từ năm 2007 đồng thời hoàn thành cuốn sách tự thuật đời mình xuất bản năm 2008 mang tựa đề “Chia cách đại dương: Hành trình con nuôi quốc tế” (Oceans Apart: A Voyage of International Adoption).

CAO HUY KHANH
(Còn tiếp)

VIỆT NAM HỒ SƠ HẬU CHIẾN (KỲ 17)

VIỆT NAM
HỒ SƠ HẬU CHIẾN
1975 - 2010

NHỮNG SỐ PHẬN KỲ LẠ
Kỳ Mười Bảy

171 - Lê Văn Bình
CHỦ TỊCH UBND TỈNH LÃNH ÁN TÙ OAN
Cựu cán bộ lãnh đạo tỉnh sinh 1934 tại Bạc Liêu – Mất 2008 (75 tuổi).
Tham gia cách mạng rất sớm hoạt động ở vùng miền Tây Nam bộ nên sau 75 lần lượt nắm giữ cương vị lãnh đạo từ cấp huyện lên cấp tỉnh Minh Hải (Bạc Liêu, Cà Mau hiện nay).Năm 1987 là Phó Bí thư tỉnh kiêm Chủ tịch UBND Minh Hải, đại biểu Quốc hội nhưng đến năm 1989 bị đưa ra toà lãnh án một năm tù cho hưởng án treo trong vụ án Cimexcol Minh Hải với tội danh “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng”.Đây là vụ án lớn từng gây dư luận gay gắt sôi nổi một thời. Mục tiêu của vụ án là xét xử Cty Xuất nhập khẩu Cimexcol Minh Hải do tỉnh thành lập (có liên kết với TPHCM) bị truy tội làm ăn kinh tế lợi dụng danh nghĩa Nhà nước cho tư nhân trục lợi vừa vi phạm pháp luật vừa thua lỗ. Trung ương cử đoàn về điều tra và đứng ra xét xử theo thủ tục hiếm có là xử sơ thẩm cộng chung thẩm chỉ một lần duy nhất!Bản án đưa ra sau đó không được quần chúng lẫn một số quan chức lãnh đạo tỉnh và địa phương không đồng tình cho rằng oan sai, “dựng đứng”, “dùng cơ chế cũ xử cơ chế mới (Đổi mới) kiến nghị xử lại nhưng vô hiệu.Tuy nhiên dưới sức ép của dư luận, Trung ương âm thầm cho điều tra lại để đến năm 1994 thì công nhận đúng là… xử oan vì Cimexcol hoạt động đúng luật pháp, hợp tác kinh doanh với nước bạn Lào làm ăn không lỗ mà còn… lời nữa! Thế là các bị can lần lượt âm thầm được thả ra. Nhưng không có văn bản xác nhận chính thức nên hầu hết không được phục hồi danh dự cũng như trả lại chức vụ, đảng tịch.Nguyên nhân sâu xa đưa đến vụ án ban đầu từ lý do chính trị nhắm “đánh” vào đối tượng Dương Văn Ba nguyên là dân biểu chế độ cũ quê Bạc Liêu nay được TPHCM cử về hợp tác với Minh Hải xây dựng Cimexcol giữ chức phó giám đốc. Ban đầu ông này bị tình nghi tội phản động len vào tổ chức Cimexcol để làm kinh tài cho phe nhóm Việt kiều hải ngoại âm mưu trở về chống phá chế độ. Nhưng sau không tìm ra chứng cứ nên quay qua gán tội kinh tế của Cimexcol là đã đổi mới… quá sớm quá mạnh trong khi chủ trương này mới được thông qua trên lý thuyết năm 1986 nên vẫn bị sự chống đối ngấm ngầm của những thế lực bảo thủ cơ chế cũ! Kết quả 18 cán bộ lãnh án tù từ 1 đến 10 năm tù, riêng ông Ba lãnh án nặng nhất tù chung thân.Trong tình hình “đấu đá nội bộ” đó, ông Lê Văn Bình đại diện Nhà nước quản lý Cimexcol được xem là một vật tế thần bị hy sinh để lấy cớ “xử bọn kia”! Trong khi thực tế ông chỉ mới lên làm Chủ tịch UBND được 2 tháng thì Cimexco bị đình chỉ hoạt động để điều tra mà ông cũng không phải là người được phân công theo dõi Cimexcol.Sau khi được tự động vô hiệu hóa án tùø, được sự ủng hộ của nhiều bạn bè đồng chí – có cả cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt, phu nhân cố Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, cựu Chánh án Toà án Nhân dân Tối cao Phạm Hưng… - ông đã kiên trì đấu tranh để đòi phục hồi danh dự, sự nghiệp. Cả lúc chớm bệnh ung thư từ năm 1999 nằm bệnh viện vẫn “Tôi quyết chiến đấu với bệnh tật tới cùng, tiếp tục sống, tiếp tục đấu tranh để nhìn thấy ngày vụ án được minh oan.”Đến lúc bệnh trầm trọng bác sĩ phải cho mở phế quản để thở, không nói được thì viết ra giấy những lời trần tình thê thiết. Cả cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt cũng gửi thư lên Trung ương: “Tôi khẳng định toàn bộ vụ án là oan sai, không bình thường”. Nhưng tất cả đều rơi vào sự “im lặng đáng sợ”.Cuối cùng qua đời trong nỗi oan khuất chưa được rửa sạch, chết đúng vào ngày 1.5 ngày lễ lớn của người cộng sản như ông (vợ cũng đã 55 tuổi Đảng)!

172 - Lê Vũ Cầu
TỪ TRẺ BỤI ĐỜI ĐẾN “QUÁN VỢ THẰNG ĐẬU”
Diễn viên, đạo diễn kịch nói tên thật Lê Bửu Cầu sinh 1955 tại Cà Mau – Mất 2008 ở TPHCM (54 tuổi).
Năm lên 8 tuổi cha mẹ chết hết khi một quả bom rơi trúng căn nhà ở làng quê heo hút, sáu chị em phải chia tay nhau mỗi người một ngả bắt đầu cuộc đời mái đầu xanh đã sớm phải lận đận truân chuyên.Nhưng ở nhà bà con bị đối xử tệ bạc nên xin vào chùa tá túc cũng không yên đành bỏ nhà bỏ làng bắt đầu kiếp sống trẻ bụi đời phiêu bạt giang hồ.Từ Cà Mau bôn ba theo dòng đời lưu lạc lên Tây Ninh, Sài Gòn rồi ra tận Quy Nhơn làm đủ thứ nghề giang hồ tứ chiến như đánh giày, trộm cắp du thủ du thực, bảo kê gái, ma cô… Nổi tiếng “Cầu Sài Gòn” khắp Quy Nhơn trước 75. Còn tổ chức nhóm ăn cắp đồ Mỹ nhiều lần bị lính Mỹ rượt bắn suýt chết. Một lần như vậy mấy đứa bạn bị lính Mỹ bắn chết, may mà mình chạy thoát được. Nhưng từ vụ thảm sát đó sinh ra bi quan chán đời rơi vào nghiện ngập ma túy hút để tìm quên.May mắn thay sau đó đi theo một gánh hát cải lương được “Tổ” cải lương cứu vớt đưa đi theo nghiệp sân khấu, cai nghiện được ma túy. Từ đó bắt đầu làm lại cuộc đời từ làm cu li khuân vác cho đoàn hát, soát vé, bảo vệ rồi lên đóng vai quần chúng, vai phụ cuối cùng mới đến vai chính.Sau 75 chuyển qua kịch nói tiếp tục gặt hái nhiều thành công qua những vai diễn “độc” – kiêm đạo diễn - khắc họa những tính cách nhân vật khắc khổ gặp cảnh đời nghiệt ngã – vai “Ông cá hô”, Chí Phèo để đời – như chính cuộc đời đầy thăng trầm của mình. Đặc biệt nổi bật với các vai hài thâm thúy, sâu sắc – hài “tỉnh queo” - cũng như đạo diễn những vở kịch thắm đậm tính hiện thực gắn liền với cảnh sống của lớp người bần cùng trong xã hội mà mình có quá nhiều kinh nghiêm chung đụng, chia sẻ.Nhưng đời riêng vẫn bị ám ảnh bởi nỗi cô đơn từ một thời thơ ấu mặc cảm đầy biến động bão táp, không vợ không con, không nhà cửa khiến có lúc lấy một chiếc xe tải làm… nhà - kiểu nhà “lưu động” – 2 năm trời. Sau đêm diễn sợ trở về căn phòng trọ vắng lặng nên cứ rủ rê bạn bè nhậu suốt sáng. Nếu có về thì nằm để đèn suốt đêm hoặc mở ti vi để phòng bớt im vắng. Có lúc khủng hoảng từng thắt cổ tự tử nhưng dây treo cổ bị… đứt nửa chừng!Cả cuộc sống lẫn tinh thần tự hành hạ như vậy nên dễ hiểu mắc bệnh xơ gan cổ trướng bó tay, khi biết bệnh càng uống rượu lậm hơn cho… mau chết! Đến năm 2004 lúc kiệt quệ nằm xuống tưởng sắp chết, bạn bè đã đi mua quan tài về lo hậu sự sẵn thì bỗng như phép lạ qua được cơn ngặt nghèo sống dậy.Trở về từ cõi chết từ đó chiêm nghiệm ra chân lý cuộc sống, như được tái sinh lại lần nữa đã tự chuyển hóa cuộc đời mình qua một khúc quanh lạ kỳ khác là tìm về vùng ngoại ô TPHCM làm một quán cơm chay bình dân từ thiện miễn phí mỗi bữa phục vụ khoảng 200 suất cơm cho người nghèo. Lấy tên “Quán vợ thằng Đậu” dân dã mộc mạc đúng kiểu Nam bộ theo tên một nhân vật kịch mình đã đóng,. Vừa để nhắc nhở mình phải ăn chay trường để chữa bệnh vừa nhằm đền ơn cuộc đời đã cưu mang giúp đỡ mình (có lúc đã vào chùa làm chú tiểu) thủa nhỏ.Nhưng cuối cùng rồi căn bệnh nan y không buông tha, qua đời với lời hứa của bạn bè – và một đứa con nuôi – sẽ ráng giữ cho “Quán vợ thằng Đậu” không đóng cửa.

173 - Lương Thanh Nhân
GƯƠNG ĐIỂN HÌNH “TRÍ THỨC TẠI CHỖ”… VƯỢT BIÊN!
Nhà giáo sinh 1948 ở Huế – Mất 1987 tại Úc (40 tuổi).
Một mẫu người tài hoa, đẹp trai, học giỏi, năng động, “văn nghệ” (một trong những thanh niên đầu tiên hát nhạc Trinh ở Huế giữa những năm 60) sau khi tốt nghiệp trung học vào Sài Gòn học đại học ra trường chạy giấy trốn quân dịch để đi dạy trường tư.Sau 75 nhờ sự nâng đỡ của thân nhân cách mạng làm lãnh đạo ngành giáo dục TPHCM đã nhanh chóng được nâng lên trở thành một điển hình của thành phần “trí thức tại chỗ” đô thị Sài Gòn trẻ tuổi đầy nhiệt huyết hăng hái tham gia cách mạng ở Sài Gòn. Vào Đảng, đang lên như diều thì đột ngột bỏ đi… vượt biên năm 78! Không chỉ đi ké mà còn đứng ra tổ chức cho cả đại gia đình (nhà vợ) đi an toàn. Thì ra lâu nay “phấn đấu” hết mình là để che mặt, đánh lừa… chế độ!Qua Úc cũng nhanh chóng tiếp tục thành đạt bước đầu vừa học vừa cùng gia đình mở nhà hàng ẩm thực VN nổi tiếng. Là một trong số ít Việt kiều vượt biên đến Úc làm ăn thành công sớm nhất.Nhưng rồi lại bỗng nhiên rơi vào trầm uất làm thơ bi ca và chỉ một thời gian ngắn ngủi sau đó chết sớm qua một tai nạn giao thông đầy nghi vấn là tự tử (?). Vợ con giấu không cho mẹ già và các em còn ở lại VN biết nhưng bà sinh nghi cuối cùng cũng biết được trước khi qua đời.Tài hoa bạc mệnh vì sự giằng xé mâu thuẫn nội tâm bấy giờ không còn vì chuyện thế sự thời cuộc như trước kia mà dường như là chuyện tình cảm riêng tư (đã có vợ ba con) mà chỉ có triết lý nặng nợ “nghiệp chướng” mới có thể lý giải được.

174 - Lương Văn Bạo
LIỆT SĨ SỐNG LẠI 7
Nông dân sinh 1947 tại Hưng Yên. Sống ở Hưng Yên (2008).
Bộ đội vào chiến trường Quảng Trị năm 1968. Tiếp tục có mặt chiến đấu trong chiến dịch 81 ngày đêm bảo vệ Thành cổ Quảng Trị trong “Mùa hè đỏ lửa” 1972.Trong 81 ngày đêm máu lửa đó đã trụ lại 70 ngày thì bị trúng mảnh bom vào đầu máu chảy đầy mặt nhưng vẫn băng bó đầu trắng toát ôm súng không rời vị trí chiến đấu. Hình ảnh này đã được phóng viên chiến trường Đoàn Công Tính ghi lại thành bức ảnh nổi tiếng thời đó.Do đã bị thương nặng nên sau đó được rút về hậu phương đưa đến Hải Dương điều trị. Vết thương tạm lành - vẫn còn để lại di chứng thỉnh thoảng nhức đầu – nên được cho chuyển ngành đi học làm thợ xây.Nhưng vận xui còn bám riết, trong một lần xây dựng công trình ở Hà Nội đã bị ngã từ trên tầng ba một ngôi nhà do sập giàn giáo. Chấn thương nặng vùng xương hông và cột sống lại phải nằm viện cả năm trời nữa, ra viện từ nay đi tập tễnh chân ngắn chân dài. Đành quay về quê làm 3 sào ruộng nuôi một vợ 3 con.Trong lúc đó tại Bảo tàng Thành cổ Quảng Trị treo bức ảnh mình băng đầu ôm súng trên công sự được treo trang trọng như một sự tôn vinh… liệt sĩ! Bởi khó ai ngờ một thương binh như vậy sau này vẫn còn sống sót, nhất là ông đã xuất ngũ biệt vô âm tín chẳng ai biết về đâu.Mãi đến năm 2007 nhân khi Quảng Trị tổ chức lễ kỷ niệm lớn trận chiến Thành cổ mời nhiều đoàn quan khách cả nước đến tham dự, một đồng đội thương binh cũ tình cờ phát hiện sự cố “liệt sĩ” qua ảnh này mới đính chính sự thật nhân vật trong ảnh vẫn còn sống! Sống sót như một phép lạ như ông nói “Đạn tránh mình chứ mình không tránh được đạn”.Nhờ đó mới có dịp được trở lại thăm chiến trường xưa trong vòng tay đồng đội cũ nay tóc đã bạc trắng, chuyến đi mình hằng ao ước bấy lâu song không thực hiện được vì nghèo quá không có tiền xe.

175 - Lương Túy Vân
BỊ “ĐÁNH TƯ SẢN” OAN
Nhà thơ nông dân tên thật Lương Hương sinh 1943 tại Thừa Thiên – Huế. Sống ở Đồng Nai (2010).

Xuất thân từ gia đình nông dân “nghèo nhất làng” nên học hết trung học ở Huế phải ra đi đưa đẩy bước chân lưu lạc kiếm sống khắp nơi, bôn ba qua đến Campuchia. Tại đây có dịp làm quen và có cảm tình với cách mạng trong đường dây hoạt động chi viện cho chiến trường miền Nam VN.Sau 75 với khí thế ủng hộ cách mạng thành công đã hồ hởi gom hết gia sản làm ăn dành dụm lâu nay trên đất bạn về nước góp tay “xây dựng quê hương” sau chiến tranh như chế độ mới kêu gọi. Vốn gốc nông dân vẫn luôn mang giấc mộng lập trang trại, “làm đồn điền” như ước mơ thời còn là nông dân nghèo khốn ở quê xưa nên lên Buôn Ma Thuột bỏ tiền mua đất sắm máy cày lập trang trại quyết sản xuất “biến sỏi đá thành cơm”.Nhưng than ôi Nhà nước ra lệnh đánh tư sản một cú dữ dằn gây họa lây đẩy nhà tư sản mới ra ràng này sập tiệm! Phá sản tay trắng phải chạy về TPHCM sống nhờ vợ nuôi.Đành tạm an ủi lãng khuây cho qua nỗi buồn đời thất thểu bằng con đường… thơ vốn ấp ủ từ lâu. Tham gia làm báo gây phong trào thơ trong giới độc giả trẻ, lập CLB Thơ Đường với bạn bè thân hữu.Nhưng được một thời gian lại nhớ cái gốc… nông dân của mình bèn xoá bài làm lại một lần nữa tìm lên vùng Long Thành ở Đồng Nai mua một mảnh đất ở sâu trong vùng khỉ ho cò gáy trồng tràm. May mà bây giờ thời Đổi mới không ai gây khó khăn nữa nên hai vợ chồng già – để con cái ở lại thành phố - cũng được yên thân ngày ngày cặm cụi lo trồng cây, tưới cây, làm cỏ…Khi đã khá ổn định rồi vẫn không quên thơ, “thơ nông trại” không kém phần lãng mạn thi vị:“Ta vềtrăng cũng theo vềôi tình đẹp quá – trăng về cùng taVề đâu?hỏi phốhỏi nhàmà trăng rạng rỡ theo ta – trăng về”(Trăng và ta)Nhưng không chỉ mình mình làm thơ tự đọc tự sướng mà còn mời gọi bạn bè người quen chòm xóm – đều là dân lao động tha hương tứ xứ tìm đến chốn đất lành chim đậu nơi đây – cùng… làm thơ, thưởng thức thơ với mình! Ấy vậy mà thành công rực rỡ khi gầy dựng được cả một phong trào làm văn học nghệ thuật cấp xã ở địa danh xã Tân Hiệp, xây dựng CLB sinh hoạt đều đặn, được cả VTV đưa lên giới thiệu trên truyền hình cả nước!Cứ thế mỗi năm tự vận động, gom góp in một tập “Tân Hiệp thơ”, đến nay đã được 4 tập.

176 - Lương Văn Tô My
TIẾN SĨ BÁN CƠM CHAY TỪ THIỆN
Giảng viên đại học sinh 1955 tại Bến Tre. Sống ở TPHCM (2010).

Năm 12 tuổi nửa đêm đạn pháo Mỹ bắn trúng nhà giết chết bố mẹ và một người anh khiến ông cùng 4 người em sớm trở thành trẻ mồ côi phải vào nương nhờ ở một cô nhi viện của chùa Bạch Vân.Từ đó là một chuỗi ngày dài phấn đấu sống còn để vươn lên trong thời chiến tranh loạn lạc. Để có thể tiếp tục việc học phải đi làm thêm nhiều nghề ngoài giờ như nhồi bột làm bánh mì, bán bánh mì, phụ việc căng tin, bỏ mối kẹo dừa Bến Tre, bán rượu lẻ tại quán ba Sài Gòn, đi dạy kèm…Sau 75 thi đậu ĐH Y Dược TPHCM, ra trường được giữ lại làm giảng viên rồi được du học Nhật Bản lấy bằng tiến sĩ khoa răng hàm mặt.Thành đạt rồi vẫn nhớ lại quãng đời cơ cực được nhiều người hảo tâm giúp đỡ, nhất là nhà chùa. Vì vậy tuy làm việc ở TPHCM nhưng vẫn quay về quê hương bỏ tiền ra lập một quán cơm chay từ thiện giá rẻ – từ 6.000 – 7.000 đồng/bữa – mang cái tên mộc mạc “Nhường Trà” với mục đích giúp đỡ học sinh nghèo có điều kiện theo đuổi việc học vượt lên số phận với lời căn dặn viết thành khẩu hiệu trang trọng treo giữa quán “Tôn sư trọng đạo”.Mỗi tuần về quán một lần trực tiếp làm việc nấu nướng, bưng bê phục vụ khách với niềm mong mỏi mọi người đến đây “gặp gỡ, tâm tình, giúp đỡ hướng dẫn nhau trên các nẻo đường đời, để tiếp tục việc học cho cuộc mưu sinh nhiều khó khăn vất vả phía trước…”

177 - Lưu Liên
40 NĂM VIẾT THƯ CHO LIỆT SĨ
Công chức về hưu sinh 1944 tại Hà Đông. Sống ở Hà Đông (2009).
Thời trẻ yêu một chàng trai nghèo không “môn đăng hộ đối” bất chấp sự phản đối của bố mẹ.Đến năm 1968 trước khi người yêu theo bộ đội lên đường vào Nam chiến đấu đã muốn làm đám cưới nhưng người yêu không đồng ý vì sợ trong thời chiến nàng sẽ sớm trở thành góa phụ. Chỉ trao tặng kỷ vật với lời hẹn như một lời tiên tri “Em chờ anh một năm thôi. Nếu khăn tay trở về – chiếc khăn tay thêu 2 bông hoa hồng kỷ vật - là anh không về, em hãy đi lấy chồng… Sau này hòa bình chỉ có em mới tìm được anh thôi”.Còn lại một mình ở hậu phương vẫn viết thư đều đặn cho anh như thời mới yêu nhau nhưng viết để đó theo lời dặn “chờ anh về đọc” sợ gửi đi dễ bị thất lạc. Đồng thời thường nằm mơ “dõi theo bước chân” người yêu qua những chặng đường hành quân chiến đấu gian khổ của người yêu, thức dậy ghi lại vào nhật ký đầy đủ chi tiết (điều kỳ lạ sau này được đồng đội của người yêu xác nhận… gần đúng như sự thật!).Đến giữa năm 1968 thì một cơn ác mộng ập vào giấc ngủ mang tin dữ đến người yêu đã tử trận. Và đầu năm 1969 thì tin này thành sự thật với giấy báo tử bay về cùng với chiếc khăn tay kỷ vật.Từ đó với niềm thương tiếc khôn nguôi, vẫn thường xuyên viết thư tâm sự gửi cho người yêu đã hy sinh giống như khi anh còn sống tuy không còn biết gửi về đâu để rồi đến ngày giỗ anh thì đem đốt chuyển xuống tuyền đài. Kể cả sau đó khi đã lập gia đình có con cái sống hạnh phúc (chồng cũng là bộ đội là người hiểu biết rất thông cảm và là người được anh… hiện về trong mơ chấp thuận!).Tuy nhiên còn mang nặng món nợ lòng về lời hứa ngày nào “chỉ mình em mới tìm được anh” nên đến năm 2000 khi về hưu liền bắt đầu cuộc hành trình truy tìm hài cốt người yêu đầu đời năm xưa.Sau nhiều chuyến đi vất vả tìm kiếm khắp chiến trường Quảng Trị nơi anh chiến đấu và hy sinh, mãi đến năm 2008 mới tìm thấy dấu tích anh ở Khe Sanh để làm lễ an táng đưa vào Nghĩa trang Đường 9. Tại đây thêm 2 lá thư nữa gửi anh bà mới viết đã được “hóa vàng” cho anh.

178 - Lưu Thị Hồng
TRẮNG TAY LƯU LẠC TRUNG QUỐC
Nông dân sinh 1948 tại Hà Nội. Sống ở Hà Nội (2006).
Đi thanh niên xung phong từ năm 1966, lấy chồng bộ đội rồi vì mẹ già đơn chiếc ở quê nên xin về quê trước làm ruộng nuôi mẹ.Năm 1980 chồng cũng ra quân về cùng làm ruộng nhưng nhà nghèo đông con sống quá kham khổ bế tắc nên chồng đâm chán nản sinh ra tật cờ bạc đánh đề nợ nần đùm đề. Phải bán nhà bán đất trả nợ rồi cả 2 chia tay để lại 5 con nhỏ một mình phải phải cáng đáng.Còn lại một mình phải đi vay trả lãi tìm đường buôn bán nuôi con. Năm 2000 theo người quen qua Trung Quốc làm ăn thì bị lừa cả vốn lẫn lãi phải sống đời làm thuê nhọc nhằn nhục nhã qua ngày. Mãi đến năm 2006 mới được người em thương tình qua “chuộc” về.Bấy giờ cơ nghiệp mất hết cuối đời tay trắng lại hoàn trắng tay. Con trai nghèo khó, con gái thì lấy chồng xa, không còn biết nương dựa vào đâu và lấy gì mà… bắt đầu lại từ đầu?

179 - Mai Hữu Trí
DI VẬT 20 USD CHO EM
Sinh viên sinh tại 1956 tại VN – Mất 1980 ở Úc (24 tuổi).
Năm 1980 vượt biên trên tàu chứa 152 người gặp hải tặc đã dũng cảm chiến đấu tới cùng đánh bại chúng cướp được tàu (3 thuyền nhân hy sinh). Nhưng sau đó tàu chết máy phải lênh đênh trên biển cả suốt 23 ngày khiến đã có người chết vì đói, may cuối cùng được tàu Anh vớt đưa đến Úc vào trại tỵ nạn.Được một người chị ở Mỹ bảo lãnh nên chờ làm thủ tục chuẩn bị đi Mỹ. Nhưng cùng lúc có người em trai cũng vượt biên đường bộ đến Thái Lan cũng vào trại tỵ nạn sống rất thiếu thốn khốn khổ. Vì thế người anh ở Úc trong thời gian chờ đợi hoàn thành hồ sơ giấy tờ di dân qua Mỹ đã tìm cách đi làm thêm để kiếm tiền gửi qua trại Thái Lan giúp đỡ em trai.Và thế rồi trong một chuyến đi bộ ra chỗ làm (hãng sơn địa phương) thì bị… xe cán chết lúc mới 24 tuổi! Đám tang trên đất lạ xứ người chỉ có duy nhất một vòng hoa tang của những người bạn cùng chuyến vượt biên mang danh nghĩa “Đại gia đình tàu Entalina”.26 năm sau – năm 2006 - người em trai bây giờ đã ở Mỹ mới có dịp qua Úc đi tìm mộ anh mình để hỏa táng mang tro cốt về quê hương VN (còn một người anh làm linh mục ở Xuân Lộc, Đồng Nai).Ngoài tro cốt còn tìm lại những di vật của người anh xấu số trong đó có biên lai tiền gửi 20 USD qua trại Thái Lan cho em trai mình. Nhưng số tiền đó em không nhận được mà vào tay bọn chủ trại cai đầu dài Thái Lan!

180 - Mai Tấn Hoàng
CỰU TỬ TÙ ĐI TU
Thường dân sinh 1940 tại Thừa Thiên – Huế. Sống ở TT Huế (2000).
Từng “ở tù từ trong bụng mẹ” vì cha mẹ đều hoạt động cách mạng, lớn lên tiếp tục lên núi theo cách mạng. Đế án chiến dịch Mậu Thân 68 bị bắt, bị kết án tử hình đày ra Côn Đảo.Sau 75 được giải phóng về quê thì mất liên lạc với cơ sở cũ không được tổ chức xác minh.Đã vậy còn “ngây thơ” thể hiện tính “đấu tranh” với những sai trái của chính quyền địa phương tự tung tự tác thời gian đầu sau giải phóng nên bị để ý trù giập. Tới mức… bị bắt bỏ tù với lý do “du đảng”, “phá hoại” – tù cách mạng, tù 2 chế độ! – và tịch biên nhà cửa. Vợ đang mang thai túng quẫn phải đi núi làm củi, thiếu ăn và lao lực sinh con mới được một ngày thì chết khiến người mẹ phát bệnh tâm thần theo.Ra tù tìm đường chạy chữa cho vợ bằng cách… đưa vào chùa ở thật xa quê cho tỉnh tâm trở lại. May vợ hết bệnh sinh được một con trai nữa song vẫn gặp bế tắc trong cuộc sống nên một lần nữa quyết định đưa cả vợ con vào chùa sống luôn, xem như cả gia đình làm cư sĩ tìm quên sự đời: “Làm cách mạng hay đi tu cả hai đều gặp nhau ở sự hướng thiện. Tôi đi tìm sự giải thoát đó” Đến năm 1999 được chính quyền minh oan trả lại sự công bằng “tương đối” mới đưa vợ con từ giã nhà chùa trở về với cuộc đời ấp ủ giấc mơ cuối đời không biết có thực hiện được hay không: “Tôi chỉ mơ ước có một ngôi nhà nhỏ không phải ở thành phố mà ở một vùng quê nào đó… Thích nhất có được một mảnh vườn, có ao thả cá.…”
CAO HUY KHANH
(Còn tiếp)