NỖI ĐAU TỘT CÙNG - LÊ THỊ THANH THANH

Lý Sơn ngày 19.4.2011
Chào các cô chú, anh chị kính mến!
Chắc có lẽ mọi người đang nhộn nhịp với cuộc sống, công việc của mình đúng không ạ? Em mong mọi người sẽ bỏ chút thời gian quý báu của mình để đọc những dòng suy nghĩ, tâm tư của em trong lá thư này. Và em mong sau khi đọc xong, mọi người sẽ hiểu, đồng cảm và giúp đỡ em. Để em và anh trai gạt đi nỗi đau và nước mắt, sự thiếu thốn lúc này, để đứng lên và tiếp tục thực hiện ước mơ của mình.

Ngày 15.11 âm lịch, cha em là Lê Minh Tân cùng chiếc tàu cá QNg 66192Ts tiếp tục ra đi hành nghề trên quần đảo (Hoàng Sa). Thế là nơi xa xôi hẻo lánh ấy, lại thấp thoáng những con người Lý Sơn và lá cờ đỏ sao vàng của Tổ quốc Việt Nam. Trước khi cha đi, em đã lặng lẽ bỏ vào túi cha một chú chim hạc tuy không đẹp nhưng mong cha sẽ bình yên trở về. Chờ đợi mỏi mòn hơn 4 tháng, niềm hy vọng trong em bắt đầu vỡ tan và em bắt đầu phải chấp nhận một thực tế, một sự thật quá phũ phàng, đau đớn. Đó là cha em sẽ không trở về nữa rồi. Tim em bắt đầu cảm thấy đau... nó như có ai đó đâm vào. Rất đau, đau đến nỗi em phải ngã gục, không đứng lên được nữa. Vì em quá sốc khi chấp nhận điều này... Lúc còn sống, cha là người cho em niềm tin, nghị lực sống, để vượt qua khó khăn, vượt qua chính mình để tiếp tục thực hiện ước mơ.
Nhưng giờ cha em đã mất. Nhiều lúc ngồi một mình, em lại lặng lẽ gấp những con hạc giấy, những chiếc thuyền, viết lên những điều mình mong ước. Những giọt nước mắt lại rơi cay nồng hai khóe mi, em không hiểu sao mình vẫn khóc. Chắc bởi vì quá cô đơn, quá đau hay quá nhớ cha nữa. Tim đau xiết lại, nước mắt lại tuôn rơi khi em nhìn về phía biển, nhìn về những thứ đang mặc cảm với mình, vì nó đã cướp đi người thân yêu nhất. Cha em ra đi mang theo tất cả những gì quý giá nhất của em. Đó là tình thương yêu, tài sản, tinh thần... Chiếc tàu trị giá 400 triệu nay đã mất, đã chôn vùi nơi Hoàng Sa, thân xác cha giờ đây đang tan rã với biển cả. Suốt cuộc đời cha sống với biển, với Hoàng Sa. Cứ mỗi lần cha đi từ Hoàng Sa về, tâm hồn em lại đau đáu, muốn nghe cha kể chuyện, lại tiếp xúc với địa lý. Em giờ đã biết Hoàng Sa, nơi có nhiều đảo nổi. Cha em đã mất nhưng niềm tự hào về cha, em vẫn mãi không quên. Từ khi cha mất, gia đình em trở nên rất khó khăn. Anh trai em là Lê Nhật Vương, là sinh viên Đại học Quy Nhơn. Vì anh trai còn học nên không thể giúp đỡ trực tiếp về vấn đề tài chính cho gia đình. Nhà chỉ còn em và mẹ. Ngoài việc học ở trường và học võ em lại phụ giúp mẹ. Có khi trưa không được ăn cơm để đi học, tối 8 giờ mới nấu cơm. Mẹ và em không bao giờ để mất một công việc nào trong ngày. Thay nhau đi làm thuê, làm mướn để kiếm tiền mưu sinh. Đôi khi em phải đi học trễ, xin về sớm để phụ giúp công việc với mẹ. Em là một lớp phó học tập, một bí thư chi đoàn, nên em phải cố gắng để đi học đều đặn. Cứ mỗi lần ngồi lặng lẽ một mình, em lại khóc, khóc vì nhà thiếu nợ quá nhiều, vì mẹ đã tiều tụy, khóc vì mình không nhìn thấy nụ cười của cha. Khi cha còn sống, em hay cùng cha đi giữ phà ở cảng biển, cùng cha ngồi câu cá trên mũi tàu. Cha hay kể chuyện về Hoàng Sa lắm. Kể về phong cảnh, vẻ đẹp của Hoàng Sa và những người hy sinh tại nơi ấy. Cha còn nói: “Con à, mình là dân biển đảo, bất kỳ ở đâu hễ là của Việt Nam thì cứ đến. Vì thế cha sẽ đi Hoàng Sa lần nữa”. Ôi cha ơi! Cha ơi! Con yêu cha nhiều lắm. Giá như cha còn thì hay biết mấy. Con sẽ mạnh dạn mà nói rằng: “Tuy con là con gái, nhưng con cũng là dân biển, cũng là người Việt Nam, con sẽ làm việc gì đó, dù nhỏ nhoi không ai biết đến, nhưng con sẽ cố gắng học, học thật giỏi, để một ngày nào đó con được đến Hoàng Sa và được nói câu: “Hoàng Sa là của Việt Nam, Hoàng Sa ta đã đến rồi đây”.
Cha em mất nhưng cũng là niềm tự hào của em, của người dân Lý Sơn. Cha là niềm vinh dự, tấm gương sáng để em noi theo. Dù cha em đã mất nhưng em sẽ cố gắng học để mai sau có thể lại thấp thoáng người dân Lý Sơn, người Việt Nam và vẫn còn đâu đó lá cờ của Tổ quốc thân yêu và khẳng định Hoàng Sa là của Việt Nam.
Gia đình em đang gặp khó khăn rất nhiều về tài chính, tinh thần. Em mong mọi người sẽ giúp đỡ để gia đình em vượt qua nỗi đau này, và em, anh trai em lại có điều kiện để thực hiện ước mơ của mình.
Em xin cám ơn!
Kính thư!

LÊ THỊ THANH THANH (học sinh lớp 10B1 trường THPT Lý Sơn)

TNO

Điểm Trang Em


Nhìn em khóc ta nghe hồn ướt đẩm
Cả địa cầu còn có nghĩa gì đâu
Ta muốn ôm trao cho em kỳ diệu
Của vầng trăng thay giọt nước mắt ngà

Ta muốn kéo cả mặt trời rực nắng
Trải trên đường nâng bước ngã em đi
Ta muốn dìu em qua từng nghiệt ngã
Vén mây chiều tô phấn điểm trang em ..

Bên Em


Ta đã được nghe tim em thổn thức
Ta đã buồn theo nhịp thở của em
Rong ruổi theo từng bước thơ rơi đọng
Để thả hồn bay bỗng quyện trong em ..

CAO HUY KHANH - VN HỒ SƠ HẬU CHIẾN 1975-2011(KÌ 75B)




NHỮNG SỐ PHẬN KỲ LẠ

Tưởng niệm
Triều Uyên Phượng
NHÀ THƠ BÁN VÉ SỐ
Nhà thơ sinh khoảng 1948 tại Nam bộ – Mất tháng 6.2011 ở Bình Phước (63 tuổi).
Trước 75 làm sở Mỹ ở Cần Thơ đồng thời làm thơ tình thời chiến với bút danh rất đẹp kể trên so với thực tế ngoại hình xấu trai còm cõi trái ngược hẳn lại cận thị đến 16 độ. Nhưng dù bản thân không bị đi lính do sức khỏe kém, thơ tình thời chiến vẫn để lại ấn tượng tươi mới đặc sắc qua phong cách thơ tự do phóng khoáng, ý thơ thâm trầm:
“Em yêu hãy hôn anh một lần trước khi anh đi lính
giữa thời đại chiến tranh cái gì cũng vội vã hết
phải không em
nhưng nhớ hôn anh một lần này thôi
vì không chừng anh sẽ ra đi
hoặc trong mười năm mười lăm năm
hay vĩnh viễn
Bây giờ anh còn tay bây giờ anh còn chân bây giờ anh còn mắt
bây giờ anh chưa đui mù chưa câm điếc chưa què quặt
nhưng biết mai anh còn đủ không
và cả trái tim anh nữa
biết còn rung động
hay im lìm
ngừng đập.
Nhiều lúc anh tự hỏi không biết chiến tranh để làm gì
không biết để làm gì
nhưng dù không biết để làm gì đi nữa
hãy nhớ hôn anh một lần đi
em nhé.”
(Trước khi đi lính)
Sau 75 thất nghiệp tan vỡ tất cả mọi ảo tưởng từ thơ ca đến cuộc sống thực tế cơm áo gạo tiền phải lên TPHCM ngồi bán vé số lề đường Sương Nguyệt Anh ở Quận 1 bên cạnh một quán nhậu nơi có một số bạn bè văn nghệ cũ hay ghé lại tiện thể mua giùm vài vé “cứu đói”. Mắt cận nặng kèm nhem nhiều khi đếm tiền thối tiền lẫn lộn tùm lum!
Đã vậy trong đời sống riêng lại gặp thêm khổ nạn phải sống chung với một phụ nữ thuộc loại “mẹ mìn” ma chê quỷ hờn dữ dằn bậc nhất, làm được bao nhiêu tiền – hoặc bạn bè thương cảm giúp đỡ - đều bị “bóc lột” hết trần thân!
Tuy nhiên nhà thơ “trên mây” buôn bán kiểu đó làm sao sống nổi nên cuối cùng cả hai dắt díu nhau về vùng xa vùng sâu ở tận Bình Phước tìm vào tá túc trong một nữ tu viện có người thân ở đó.
Từ đó sống không ra sống, bản thân mắc bệnh già, vợ thì gần như mù luôn rồi. Chỉ còn cách lâu lâu về TPHCM nhờ anh em bạn bè cũ giúp đỡ tiền bạc được chút nào hay chút đó thôi.
Bất ngờ năm 2007 thấy xuất hiện trở lại ở TPHCM chạy vạy xin làm thủ tục… đi Mỹ theo diện bổ sung mới nhất (nhờ trước kia có làm sở Mỹ) song cái phao cuối cùng này cũng tuột khỏi tầm tay bởi nay gần như đã quên hết… tiếng Anh rồi! Đành thất tha thất thểu quay về tàn đời trong tu viện, ít ai biết tin tức liên lạc.
Vài năm sau trở bệnh nặng đưa lên TPHCM thì tất cả đều ngoài tầm tay mà cũng đã quá muộn màng. Hỏa táng ở Bình Hưng Hòa trong tình cảnh khốn khó cô quạnh mà bạn bè không ai hay biết.

755 – Alăng Bhuôch
ANH HÙNG MÙ
Nông dân người dân tộc Cơ Tu sinh 1921 tại Quảng Nam. Sống ở Quảng Nam (2008).
Lúc 6 tuổi mắc bệnh sởi nên bị mù cả 2 mắt. Dù vậy vẫn theo mẹ (cha mất sớm) vào rừng đốn củi kiếm sống nên dần dà việc gì cũng biết làm, đi đâu cũng được nhờ cây gậy tre dò đường thay cho đôi mắùt.

Từ năm 1958 theo cộng sản đánh Mỹ, tình nguyện vào đội dân công làm công tác mang vác lương thực, vũ khí cho bộ đội từ chiến trường Quảng Nam đến tận Thừa Thiên – Huế. Có khi mang trên lưng khối lượng hơn 60-70kg trong khi bản thân chỉ cân nặng 50kg. Nhiều lần đi lạc đường cuối cùng vẫn tìm về được, có khi bị bom nổ hất xuống hố đất cát vùi lấp tưởng chết rồi vẫn chui ra… sống dậy!
Từ đó được tặng cho biệt danh “Ông già huyền thoại Trường Sơn”.
Năm 1970 từ trong chiến trường làm lễ kết hôn với một cô gái đồng đội đồng hương.
Đến năm 1972 sức khỏe suy giảm mới được cho nghỉ, tính đến khi đó đã gùi trên lưng đến… 18 tấn lương thực vũ khí phục vụ chiến sĩ đánh giặc.

Sau khi chiến tranh kết thúc trở về buôn làng cũ xắn tay vào xây dựng cuộc sống ổn định, làm vườn, đào ao nuôi cá. Bây giờ lại tự tay một mình mò mẫm đào 2 cái ao lớn nuôi cá, mỗi cái đào trong một tháng mình “cày” vợ đẩy xe cút kít đổ đất. Rồi tiếp tục san lấp mặt bằng trồng rau, đào cả một con mương về làm lúa nước và còn vào rừng đặt bẫy săn thú nữa.
Vậy mà năm 2003 khi có chủ trương mở đường, trong một tháng đã tự mình tháo dỡ ngôi nhà chuyển qua bên kia đường nhườøng đất làm tuyến đường Hồ Chí Minh.

Năm 1980 cưới thêm bà vợ nữa cũng vốn là đồng đội cũ đồng hương với bà vợ cả do chính bà… đi tìm do bà bị ảnh hưởng CĐDC nên không có con. Với vợ mới sinh được 2 con.

Năm 2007 huyện làm hồ sơ ra Trung ương đề nghị phong Anh hùng song chưa được chấp nhận do thiếu giấy tờ. Vì bản thân mù chữ không quan tâm lưu giữ bao nhiêu chứng từ bằng khen và huân – huy chương, đã vậy nhà còn bị một trận cháy tiêu hết tất cả! May mà con cháu trong ngành giao thông vận tải tỉnh đã vận động nhau làm cho một ngôi Nhà Tình thương.

756 - A Lết
MỘT THỜI FULRO
Lao động người dân tộc Ba Na sinh 1956 tại Gia Lai. Sống ở Gia Lai (2008).
Trước 1975 gia đình có người thân đi lính chế độ Sài Gòn cũ nên sau 1975 nghe theo bạn bè đi theo Fulro chống phá cộng sản quấy rối vùng Tây Nguyên âm mưu thành lập quốc gia tự trị. Được phong chức xã trưởng.

Năm 1980 bị bắt đưa về tỉnh giam, tuy nhiên thấy mức độ tội trạng nhẹ nên sau đó được thả ra.

Về tiếp tục hoạt động cho Fulro, được đưa qua Campuchia huấn luyện rồi đưa về quê cũ thăng chức quận trưởng.

Năm 1984 do nội bộ bất hòa gây mâu thuẫn nên bị tố tội “nằm vùng” cho cộng sản, Fulro chuẩn bị đưa ra xử tử. Vì vậy đầu năm 1985 bỏ trốn về đầu thú chính quyền. Sau thời gian đi học tập cải tạo, được trả tự do về với gia đình.

Từ đó chuyên tâm làm ăn xa rời chính trị đấu đá. Nhờ hồi nhỏ có được học hành sơ sơ nên bây giờ tự mày mò học hỏi ra làm nghề sửa chữa radio, cassette. Vợ con làm ruộng và cà phê, bán thuốc Tây. Khuyến khích con trai khôi phục nghề thêu thổ cẩm truyền thống lập hợp tác xã sản xuất buôn bán mặt hàng này thành công. Đời sống cả nhà ngày càng khấm khá.

Năm 2000 rồi năm 2004 tàn quân Fulro nhắn tin về lôi kéo quay lại hàng ngũ ý đồ xây dựng lực lượng “Tin Lành Đề Ga” -- chống cả đạo Tin Lành chính thống lẫn cộng sản -- song đều dứt khoát từ khước. Với niềm xác tín Kinh Thánh đã dạy: “Có những con đường ta ngỡ sáng song đó là nẻo đường đến với cái chết.”

757 - Anh Việt
NHẠC THIỀN, NHẠC KINH
Nhạc sĩ tên thật Trần Văn Trọng sinh 1927 tại Rạch Giá – Mất 2008 ở Mỹ (81 tuổi).
Từng tham gia kháng chiến chống Pháp ở Nam bộ vừa sáng tác nhạc nổi tiếng từ thời đó đặc biệt với ca khúc “Bến cũ” viết 1946.

Sau 1954 ở lại miền Nam gia nhập quân đội VNCH làm lớn đến chức đại tá từng nắm chức Cục trưởng Quân cụ. Trong chế độ Thiệu ủng hộ cựu Thủ tướng Nguyễn Cao Kỳ nên nhận chức Chủ tịch Hội Văn nghệ sĩ Quân độ theo phe này. Di tản qua Mỹ 30.4.75.
Trên đất Mỹ ban đầu đi dạy học cho con em Việt kiều. Được một thời gian thì rút lui vào sống ẩn dật để quay trở lại con đường sáng tác âm nhạc mà trước đây phải xa rời do bận công vụ. Ban đầu là những bài hoài niệm đời nghệ sĩ lưu vong như “Ngày tôi xa Sài Gòn”, “Đừng khóc nữa em ơi”, “Xuân viễn xứ”, “Tôi sẽ về quê hương” (1985)…

Sau đó chuyển qua tập trung nghiên cứu Phật học và viết nhạc thiền phổ nhiều thơ của thiền sư Nhất Hạnh (ở nhà thường xuyên mang áo tràng cư sĩ). Năm 1993 và 1996 ra một tập nhạc và 2 đĩa CD nhạc thiền, năm 1997 ra 2 CD nữa phổ nhạc các bài kinh bài kệ Phật giáo do Phật tử hát mình đệm đàn mandoline.

Năm 1999 tổ chức buổi diễn kỷ niệm 50 năm sáng tác âm nhạc với toàn bộ tiền bán vé gửi về quê nhà giúp đồng bào bị nạn bão lụt miền Trung.

758 - A Tiết
SUỐT ĐỜI ĐI BỘ ĐƯA THƯ
Bưu tá xã người dân tộc Xê Đăng sinh 1948 tại Kon Tum. Sống ở Kon Tum (2008).
Từ năm 17 tuổi đã nhận nhiệm vụ làm giao liên cho cộng sản đưa thông tin, thư từ liên lạc từ vùng căn cứ ra huyện. Vì phải đi bộ xuyên qua địa bàn địch gặp rất nhiều nguy hiểnm khó khăn nên thường phải đi băng đường rừng vào ban đêm 2-3 ngày mới tới nơi đồng thời phải tìm cách ngụy trang tài liệu giấu vào giữa ruột ống lồ ô đựng gạo cơm.

Lập nhiều chiến công thầm lặng như vậy nên năm 1970 được kết nạp Đảng.

Sau chiến tranh vẫn bám trụ địa bàn cũ vùng cao phía cực bắc Tây Nguyên vẫn với nhiệm vụ cũ làm bưu tá đi bộ đưa thư và nay thêm công văn, báo chí cho 2 xã cách nhau 100km. Cho nên ngày nào cũng đi suốt từ sáng đến tối mịt mới về nhà, có hôm gặp trời mưa gió phải ở lại tá túc nhà dân mà nơi đây ai cũng đều quen mặt hàng chục năm nay rồi.

Đã hơn 40 năm rồi chân cứng đá mềm không hề nghe được “lên chức” gì cả vẫn miệt mài lội bộ với đầøu đội nón cối vai mang túi vải bộ đội chân xỏ đôi dép mũ đơn giản cứ thế mà đi dẻo dai quả là “Người đi bộ lâu và nhiều nhất nước”.

Không hề có lấy một lời than van mà chỉ khiêm tốn nhỏ nhẹ rằng “Tôi chỉ làm chút chút cho cách mạng thôi không có cái chi để nói mô”!

759 - Ayun Hới
NHỮNG “ĐỨA CON TRỜI CHO”
Nông dân người dân tộc Ê Đê sinh 1931 tại Gia Lai. Sống ở Gia Lai (2008).
Thời trẻ theo cách mạng đánh Mỹ, năm 1968 mang lon sĩ quan bộ đội. Lấy vợ cũng bộ đội dân tộc Jơ Rai.

Sau 1975 vợ xuất ngũ về buôn làng làm ruộng, còn mình tiếp tục được điều qua chiến trường Campuchia. Đến khi bị thương hư một mắt mới được cho ra quân về quê sống với vợ.

Trong chiến tranh đã có 2 con song do điều kiện nuôi nấng khó khăn nên sức yếu đều sớm qua đời khiến 2 vợ chồng già nay đành lủi thủi sống cô đơn buồn tẻ.

Thế rồi một lần nọ gặp một trẻ thơ người Ba Na do mẹ vừa sinh ra đã trút hơi thở nên theo phong tục lạc hậu bị bố bỏ mặc ngoài trời cho “đi theo mẹ nó”, thấy vậy không đành lòng mới “cướp” lấy mang về nhà nuôi nấng xem như con ruột. Aáy cũng nhờ thời đi bộ đội được học hành có hiểu biết đôi chút về nếp sống văn minh đẩy lùi, xóa bỏ các tập tục lỗi thời.

Sau đó lại cưu mang thêm một đứa trẻ bo vơ khác mà lại là dân tộc Kinh.

Từ đó tiếng lành đồn xa, có nhiều đứa trẻ mồ côi lạc loài tứ xứ đều tìm đến hoặc được người khác đưa đến nhờ… nuôi giùm, gọi là con “trời cho”! Đủ các “quốc tịch” dân tộc từ Kinh đến Ê Đê, Jơ Rai, Ba Na… tất cả tạo nên một gia đình “Liên hợp quốc Việt Nam” thu nhỏ: “Cứ một đứa thì bỏ một hòn cuội vào hũ để đánh dấu ngày mình nhận nó vô nhà, cũng được hơn 2 chục hòn cuội rồi…”

Nhưng để nuôi đủ chúng cả 2 vợ chồng phải vất vả làm lụng lên núi xuống rẩy tối tăm mặt mày kiếm thêm chút tiền phụ vào lương hưu bộ đội.

Nhờ trời rồi cũng qua phà, đám con nuôi cứ dần dà lớn lên vững vàng như cây rừng ra đời lấy vợ lấy chồng lại mang về khoe cha mẹ nuôi các cháu. Vậy là hạnh phúc rồi như điều mình từng được học thời đi bộ đội: “Ai làm cho nhiều người hạnh phúc nhất thì người đó hạnh phúc nhất.”

760 – Bạch Hữu Bồng
NHÀ BÁO BỊ MƯU SÁT
Nhà báo Việt kiều Mỹ sinh tại VN. Sống ở Mỹ.
Qua Mỹ sau 1975 làm chủ nhiệm một tờ tuần báo nhỏ tiếng Việt ở Los Angeles.
Năm 1982 cho đăng một bài điều tra về một băng nhóm xã hội đen trong cộng đồng Việt kiều tại Quận Cam do một số sĩ quan “người nhái” hải quân VNCH – lực lượng biệt kích ưu tú của hải quân VNCH được huấn luyện theo kiểu Mỹ – cầm đầu. Lập tức sau đó bị phục kích bắn nhiều phát đạn khi vừa rời khỏi một nhà hàng ở khu Chinatown nhưng may mà đưa vào bệnh viện cứu sống kịp thời.
Bản thân sau đó tố cáo đích danh một cựu sĩ quan “người nhái” VNCH là thủ phạm và cảnh sát Mỹ đã bắt giữ người này đưa ra toà song cuối cùng được tha bổng vì thiếu chứng cứ cụ thể!
Đành chấp nhận đóng cửa báo rút lui cho yên thân.

(Còn tiếp)

TỔ QUỐC NHÌN TỪ BIỂN - NGUYỄN VIỆT CHIỀN

Nếu Tổ quốc đang bão giông từ biển
Có một phần máu thịt ở Hoàng Sa
Ngàn năm trước con theo cha xuống biển
Mẹ lên rừng thương nhớ mãi Trường Sa

Đất Tổ quốc khi chập chờn bóng giặc
Các con nằm thao thức phía Trường Sơn
Biển Tổ quốc chưa một ngày yên ả
Biển cần lao như áo mẹ bạc sờn

Nếu Tổ quốc hôm nay nhìn từ biển
Mẹ Âu Cơ hẳn không thể yên lòng
Sóng lớp lớp đè lên thềm lục địa
Trong hồn người có ngọn sóng nào không

Nếu Tổ quốc nhìn từ bao quần đảo
Lạc Long cha nay chưa thấy trở về
Lời cha dặn phải giữ từng thước đất
Máu xương này con cháu vẫn nhớ ghi

Đêm trằn trọc nỗi mưa nguồn chớp bể
Thương Lý Sơn đảo khuất giữa mây mù
Thương Cồn Cỏ gối đầu lên sóng dữ
Thương Hòn Mê bão tố phía âm u

Nếu Tổ quốc nhìn từ bao thương tích
Những đau thương trận mạc đã qua rồi
Bao dáng núi còn mang hình góa phụ
Vọng phu buồn vẫn dỗ trẻ, ru nôi

Nếu Tổ quốc nhìn từ bao hiểm họa
Đã mười lần giặc đến tự biển Đông
Những ngọn sóng hóa Bạch Đằng cảm tử
Lũ Thoát Hoan bạc tóc khiếp trống đồng

Thương đất nước trên ba ngàn hòn đảo
Suốt ngàn năm bóng giặc vẫn chập chờn
Máu đã đổ ở Trường Sa ngày ấy
Bạn tôi nằm dưới sóng mặn vùi thân

Nếu Tổ quốc neo mình đầu sóng cả
Những chàng trai ra đảo đã quên mình
Một sắc chỉ về Hoàng Sa thuở trước (*)
Còn truyền đời con cháu mãi đinh ninh

Nếu Tổ quốc nhìn từ bao mất mát
Máu xương kia dằng dặc suốt ngàn đời
Hồn dân tộc ngàn năm không chịu khuất
Dáng con tàu vẫn hướng mãi ra khơi

N V C

(*) Mới đây người dân huyện đảo Lý Sơn đã tìm thấy một sắc chỉ của vua triều Nguyễn năm 1835 cử dân binh ra canh giữ đảo Hoàng Sa
TNO

THÁCH THỨC BIỂN ĐÔNG VÀ "CHIẾC NỎ THẦN" VIỆT NAM - VŨ MINH KHƯƠNG

Những biến động dồn dập gần đây ở Biển Đông với hành động phi đạo lý của Trung Quốc trong xâm phạm chủ quyền của Việt Nam chỉ là phần nổi của một tảng băng chìm khổng lồ chứa đựng không chỉ tham vọng vô đáy của Trung Quốc trong vùng biển xung yếu này mà cả sự đánh giá rất thấp (nếu không nói là coi thường) khả năng ứng xử chiến lược của nhà nước và sức trỗi dậy của dân tộc Việt Nam.

Đây là một nước cờ sâu và táo bạo. Có lẽ những người đi nước cờ này đã trù tính kỹ tới ba phản ứng sau đây của Việt Nam. Thứ nhất, Việt Nam sẽ không tiếc tiền, vội vã mua sắm vũ khí, tăng cường phòng thủ. Điều này sẽ làm ngân sách quốc gia kiệt quệ, kinh tế vĩ mô chao đảo, kinh tế suy yếu.

Thứ hai, người dân Việt Nam sẽ rất bức xúc trong khi nhà nước bối rối lo ngại nên tăng cường kiểm soát và kìm chế. Kết quả là, người Việt Nam sẽ mất đi tính sáng suốt của sự đồng lòng; và do đó không còn tâm trí nào cho một nỗ lực cải cách sâu rộng.

Thứ ba, giới doanh nhân Việt Nam sẽ mất đi quyết tâm và nhuệ khí trong thâm nhập thị trường Trung Quốc, một yếu tố quan trọng không thể thiếu trong chiến lược phát triển. Vì thế, Việt Nam sẽ tiếp tục là nước thua thiệt và yếu kém nhất trong các nước châu Á trong quan hệ thương mại với thị trường khổng lồ và tăng trưởng nhanh chóng này.

Thế nhưng, những người chơi nước cờ sâu và táo bạo nói trên có thể không lường hết sức trỗi dậy của dân tộc Việt Nam. Dân tộc này có một vũ khí chiến lược vô song chỉ được dùng đến khi không còn phương cách nào khác. Vũ khí đó có khả năng làm kinh ngạc đối phương và thế giới bằng những nỗ lực phi thường mà trước đó không ai có thể hình dung được. Thách thức Biển Đông có lẽ là một vận hội vô giá, nó buộc người Việt Nam chúng ta phải dùng đến chiếc "nỏ thần" kỳ diệu này.

CHÚNG TA CẦN HIỂU TRUNG QUỐC HƠN

Để vượt qua thách thức nghiệt ngã hiện nay, Việt Nam cần hiểu rõ hơn Trung Quốc. Đây là một dân tộc có nền văn hóa lớn, lâu đời, với nhiều thành quả huy hoàng trong quá khứ nhưng đã bị kìm nén nặng nề trong hàng trăm năm qua do chính sách đóng cửa và não trạng mê muội. Từ khi có cải cách do ông Đặng Tiểu Bình khởi xướng họ đã đi được những bước khổng lồ, làm thế giới thán phục, với động lực chủ đạo là ý chí và tham vọng rất lớn, trọng dụng nhân tài, tầm nhìn rộng, và mưu kế sâu sắc. Xu thế này hiện còn rất mạnh mẽ và có thể còn kéo dài.
Việt Nam cũng như nhiều nước khác cần thấu hiểu cục diện này và chuẩn bị thật tốt để có thể sống bên một người láng giềng khổng lồ, hùng mạnh, tham vọng, mưu sâu, và có thể có những hành vi nhẫn tâm trong khẳng định quyền thế nhờ sự trỗi dậy của mình.

Đồng thời, Việt Nam cũng cần biết rõ những điểm yếu rất dễ tổn thương của Trung Quốc. Thứ nhất, đó là nội tình phức tạp với nhiều yếu tố bất ổn từ trong cốt lõi. Mức độ ổn định chính trị và kiểm soát tham nhũng của Trung Quốc rất thấp so với hầu hết các nước (theo khảo sát thường niên của Ngân hàng Thế giới). Trung quốc sẽ không thể rảnh tay làm mưa gió trên thế giới nếu người dân Trung Quốc thấy chính phủ mình thua kém Việt Nam và các nước láng giềng trong nỗ lực cải cách-phát triển. Khi đó Trung Quốc sẽ phải quay về giải quyết vấn đề nội bộ.

Thứ hai, hình ảnh nhân văn của Trung Quốc trên trường quốc tế còn rất thấp. Từ thực tế châu Phi đến Biển Đông, họ chưa chứng tỏ được mình là một quốc gia có trách nhiệm cao trong kiến tạo hòa bình và phồn vinh cho thế giới.

Thứ ba, Trung Quốc để lại nhiều ấn tượng chưa đẹp về tính trung thực và sự nhất quán giữa hành động và lời nói, từ chất lượng sản phẩm đến đường lối kinh tế và chính sách ngoại giao.

Một mặt khác, Trung Quốc là một quốc gia có lãnh đạo giỏi, tầm nhìn xa. Trên thực tế, họ rất ngại và kiêng nể các quốc gia có hội đủ ba yếu tố: thượng tôn các qui luật của tạo hóa, trọng dụng nhân tài, và dốc sức khai phát sức mạnh dân tộc. Bởi họ biết dân tộc này sẽ là một quốc gia hùng cường. Hàn Quốc là một trường hợp điển hình. Trong khi đó, họ có thể hành xử rất ngạo mạn với những quốc gia mê muội, giáo điều, hắt hủi hiền tài, phân liệt nhân tâm. Bởi họ biết đất nước này đang ở vào thế suy vi.

Trung Quốc đã qua giai đoạn trỗi dậy hòa bình và bước vào giai đoạn khẳng định uy lực của mình. Họ sẽ không ngại đối đầu trên những điểm mạnh của họ, đặc biệt là về thực lực kinh tế và quân sự. Tuy nhiên họ sẽ phải chùn lại nếu sự đụng độ khoét sâu các điểm yếu nêu trên: ổn định chính trị thấp, hình ảnh nhân văn hạn chế, ấn tượng về hành xử thiếu văn minh và trách nhiệm.

VIỆT NAM : CHIẾC "NỎ THẦN" VÀ PHƯƠNG CÁCH SỬ DỤNG
Từ bài học từ cha ông
Binh pháp cổ có tổng kết rằng, muốn làm nên một chiến thắng hiển hách, cần có khả năng làm kinh ngạc đối phương. Đây là chiếc "nỏ thần" kỳ diệu mà người Việt Nam qua bao thế hệ đã dùng đến mỗi khi đất nước bị lâm nguy hoặc ngoại xâm giày xéo. Ông cha ta đã để lại những bài học quí giá khi dùng đến vũ khí chiến lược này.

Bài học của Đức Trần Hưng Đạo chỉ ra rằng cách bảo vệ tổ quốc tốt nhất là chủ động tiến công vào những yếu kém của chính mình. Theo tư tưởng này, ngài thảo ra hịch tướng sĩ, khích lệ tướng sĩ thấy nỗi nhục quốc gia mà bỏ thói hư tật xấu, quyết chí một lòng, xả thân vì nước.

Ngài chỉ rõ, nếu để mất nước thì: "chẳng những thân ta kiếp này chịu nhục đến ngàn năm sau tiếng nhơ khôn rửa, tên xấu còn lưu, mà gia thanh các ngươi cũng không khỏi mang danh là tướng bại trận."

Và nếu giữ được nước thì: "trăm đời sau còn để tiếng thơm; chẳng những thụy hiệu ta không hề mai một, mà tên họ các ngươi cũng sử sách lưu truyền."

Nguyễn Trãi nêu ra những nguyên lý cao cả để dân tộc vượt lên mọi sự bạo ngược:
"Lấy đại nghĩa để thắng hung tàn
Lấy chí nhân để thay cường bạo"
(Bình Ngô Đại cáo)

Hoàng đế Quang Trung Nguyễn Huệ trăn trở tìm kiếm người hiền tài ra giúp nước: "Trẫm đang ghé chiếu lắng nghe, thức ngủ mong mỏi mà có người tài cao học rộng chưa từng thấy đến... Ngẫm cho kỹ: cái nhà to lớn - sức một cây không dễ gì chống đỡ, sự nghiệp thái bình - sức một người không thể đảm đương." (Chiếu cầu hiền)

Đến nỗ lực hôm nay
Sẽ cần những nghiên cứu sâu sắc và thảo luận rộng khắp trong nhân dân để tìm ra đủ phương cách để Việt Nam có thể vượt lên bằng những nỗ lực làm kinh ngạc thế giới, buộc đối phương phải rút về thế phòng thủ - hòa hoãn. Ba hướng đi lớn cho các nỗ lực có thể là:

1- Xác lập ý chí cải cách của lãnh đạo Đảng và Nhà nước;

2- Cả nước trên dưới một lòng toàn tâm toàn ý khai phát sức mạnh tiềm tàng của dân tộc; và

3- Toàn xã hội thành tâm coi giá trị nhân văn và lòng nhân bản làm nền tảng phát triển và hướng đích cho dân tộc đi đến phồn vinh.

Theo hướng đi này chúng ta có quyền đòi hỏi và kỳ vọng một số hành động sau đây:
+ Lãnh đạo Đảng và Nhà nước lắng nghe bàn luận để thấy hết nguy cơ, thậm chí thảm họa mà đất nước nhân dân sẽ phải gánh chịu trong tương lai không xa nếu đất nước tiếp tục tụt hậu, dân tộc phân tâm.

+ Lãnh đạo Đảng và Nhà nước quây quần cùng đại diện mọi tầng lớp nhân dân, ngày đêm họp bàn tìm phương kế cải cách, đưa nhanh đất nước đến hùng cường.

+ Lãnh đạo Đảng và Nhà nước có chính sách sử dụng hiền tài, đưa đất nước vượt lên trên mọi lĩnh vực, từ phát triển kinh tế đến củng cố quốc phòng, từ dân chủ hóa đất nước đến xây dựng thiết chế nền tảng cho phát triển bền vững, từ cải cách giáo dục đến nâng cấp tiềm lực khoa học công nghệ, từ hợp tác quốc tế đến gia cường vị thế và hình ảnh Việt Nam.

+ Có những bước đi đột phá táo bạo; đặc biệt là xây dựng một số đặc khu kinh tế nhằm huy động sức mạnh tổng lực của dân tộc, là hình mẫu của Việt Nam năm 2045, với sức đuổi vượt mạnh mẽ làm thế giới khâm phục và kính nể.

+ Mỗi người dân Việt Nam, dù ở đâu hãy tự giác góp phần tạo nên hình ảnh một dân tộc có phẩm chất cao quí: thành tâm trong hợp tác, cầu thị trong học hỏi, ý thức trách nhiệm cao với cộng đồng. Việt Nam cần trở thành một điểm sáng, có sức tương phản và thu hút mạnh mẽ trong hun đúc những phẩm chất cao quí này.



TS VŨ MINH KHƯƠNG
(TuanVietNam.Net)

HUYẾT THƯ TỪ BIỂN ĐÔNG - BÙI CHÍ VINH



Biển Đông không chấp nhận "Đường Lưỡi Bò" láu cá
Không chấp nhận tàu Hải Giám, tàu Ngư Chính thưa em (thứ tàu
lạ mơ hồ)
Biển Đông không có dầu hỏa cho bọn cường hào, không có
thềm lục địa cho ác bá
Nhưng có ngư dân hiền lành và tuổi trẻ khát tự do

Biển Đông tang thương từ những rặng san hô
Nơi xác cha ông trồi lên thành quần đảo
Nơi bọn xâm lăng đang gióng trống giương cờ
Tưởng đất nước Tiên Rồng thời bình trôi hết máu

Anh đã từng nếm mùi chiến tranh, từng nếm mùi đói cơm
thiếu áo
Thoát chết ở Trường Sơn, sống lại ở đồng bằng
Thuộc lòng sử Việt Nam như một người tử đạo
Thương cọc nhọn Ngô Quyền, mê chiến thắng Bạch Đằng Giang

Làm sao có thể thờ ơ trước bầy cá mập ăn đêm
Dám lồng lộn khắp Biển Đông dọa nạt
Chúng săn anh và chúng đuổi em
Bằng lý luận của Thiên Triều xưa… "quá đát"

Em ơi em tự do có thật
Mộ gió cha ông cũng có thật kia kìa
Sờ lên ngực anh đi, khi trái tim còn đập
Thì đâu dễ gì giặc phương Bắc được hả hê ?

Em ơi em khi sinh tử cận kề
Mới hiểu hết thế nào là nhân quả
Mới thấy "cháy nhà ra mặt chuột" ngô nghê
Thấy "tàu lạ" thành tàu quen… dối trá

Biển Đông không có chỗ cho Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống
rạp mình hèn hạ
Không có chỗ cho tàu Hải Giám, tàu Ngư Chính "giả nai" quen
thói mơ hồ
Càng không có dầu hỏa cho cường hào, không có ngư trường cho
ác bá
Chỉ có cọc nhọn Bạch Đằng và cánh tay "Sát Thát" khát
tự do !

6-2011
BCV

TRANG VĂN NGÀY CŨ KỲ 32 - THƯƠNG NHỚ NHÀ THƠ TRIỀU UYÊN PHƯỢNG



Trước 1975 nhà thơ Triều Uyên Phượng chuyên làm thơ tình lãng mạn bay bướm cho lứa tuổi học trò đúng như bút danh rất đẹp của mình
Sau 1975 nhà thơ lâm vào cảnh nghèo túng phải bán vé số độ nhật qua ngày .Tuy nhiên nhà thơ “trên mây” buôn bán kiểu đó làm sao sống nổi nên cuối cùng dắt díu vợ về vùng xa vùng sâu ở tận Bình Phước tìm vào tá túc trong một nữ tu viện có người thân ở đó. Sống không ra sống, bản thân mắc bệnh già,cận thị 16 độ, vợ thì mù . Cuộc sống chỉ còn nhờ vả bạn bè cũ và người thân.Anh đã ra đi lặng lẻ,âm thầm vào sáng ngày 5 tháng Năm Tân Mão (nhằm ngày 06 tháng 06 năm 2011 sau một cơn đột quị, gần cả tháng sau bạn bè anh em văn nghệ mới hay tin

"Nhắc đến bút danh Triều Uyên Phượng là chúng ta không thể nào quên những bài thơ tự do đã đăng trên Văn thời Trần Phong Giao phụ trách. Những lời thơ như những tiếng kêu trầm thống của một thế hệ: thế hệ chiến tranh.

Chúng tôi xin được trích đăng lại ba bài thơ do chúng tôi sưu tập, như là nén hương lòng dâng lên hương hồn của người bạn thơ quá cố. (Trần Hoài Thư)"

TRƯỚC KHI ĐI LÍNH

Em yêu hãy hôn anh một lần trước khi anh đi lính
giữa thời đại chiến tranh cái gì cũng vội vã hết
phải không em
nhưng nhớ hôn anh một lần này thôi
vì không chừng anh sẽ ra đi
hoặc trong mười năm mười lăm năm
hay vĩnh viễn
Bây giờ anh còn tay bây giờ anh còn chân bây giờ anh còn mắt
bây giờ anh chưa đui mù chưa câm điếc chưa què quặt
nhưng biết mai anh còn đủ không
và cả trái tim anh nữa
biết còn rung động
hay im lìm
ngừng đập.
Nhiều lúc anh tự hỏi không biết chiến tranh để làm gì
không biết để làm gì
nhưng dù không biết để làm gì đi nữa
hãy nhớ hôn anh một lần đi
em nhé.

BẦY MỐI CỦA CHÀNG

Chàng mãi loay hoay trí nhớ
sao bầy mối cứ đùn lên hoài
tội nghiệp cho tuổi trẻ chàng
thật tội nghiệp hết sức.

Xin hãy nói dùm với bầy mối
hãy kêu la dùm chàng
hãy kêu la và thét
bầy mối ơi bầy mối
tội nghiệp hết sức.

Sao bầy mối cứ đùn trong trí nhớ chàng vậy
ai làm ơn nói dùm với nàng
Xin hãy buông tha chàng.

KHI MÃN CUỘC

Chàng ngồi xe ra đi và đốt thuốc
Một đốm lửa lòe trong tay chàng
Rồi vụt tắt
Chàng thì thầm trong tay
Đoạn khóc rất sỗ sàng

Điếu thuốc dần tàn dần tàn trên môi
Chàng thì buồn hơn lúc nào
Những hơi thở lụn bại
Kéo dài trong chàng từng cơn.

(Nguồn: Thơ Miền Nam Thời Chiến Tập I- Thư Ấn Quán Hoa Kỳ Xb 2009)

Bậc Đời

Mỗi ngày một bậc thang
Ta leo theo triền đời
Nghe bước chiều len lỏi
Ơi dốc mỏi cuộc chơi

Em ơi thơ rạn vỡ
Trong trượt ngã bậc đời
Vẫn thả hồn theo gió
Theo dốc đời đắng cay

Mỗi khoảnh khắc trong ngày
Ta nâng niu ấp ủ
Tặng em và cho ta
Vá víu đời xót xa

Hãy giữ dùm ta nhé
Hãy  hôn lên bậc đời
Làm hành trang trải rộng
Rong ruổi tháng ngày phai ..

RỪNG BẦN - NGUYỄN NGỌC TƯ



Chiếc ghe máy đi chậm rãi trên lòng rạch đang buổi nước ròng. Hai ông cháu chủ ghe làm tôi nhớ cái truyện Rừng mắm của Bình Nguyên Lộc, dù ở đây nhiều bần, ít mắm. Thằng nhỏ đen thui, da mốc cời trên mình chỉ dính cái quần cộc, nằm gối đầu lên ông già cũng đen thui mốc cời chỉ quần cộc trên người. Họ đưa tôi ra gần cửa biển, chỗ một cồn cát nghe nói khá đẹp. Nước biển trong, tắm được. Người ta hay ra đó chơi, thằng nhỏ quảng cáo ngắn gọn.

Hai bên bờ rạch là những cây bần lớp quỳ lớp đứng thành chòm, thành rừng. Những trái bần xanh gây ra một phản xạ ứa nước miếng, ê răng cho những ai từng nếm thử chúng, dù chỉ một lần. Cây lá thưa, cành rời nên có mọc dày cũng không thấy chen chúc, vẫn thấy những khoảng trống. Dầm chân trong sình lầy, mỗi cây là một đìu hiu, họp lại làm rừng cũng là một rừng đìu hiu, buồn buồn. Ngửa mặt thấy phía trên những nhánh bần de ra lòng rạch là trăng chiều mỏng và lạnh. Cảnh này mà có thả cụ Charlie Chaplin vô giễu thì cũng không cười nổi. Riêng cái tên bần thôi đã nghe có chút ngậm ngùi rồi.

Chiếc ghe tấp vô bờ, thả tôi lên cồn, ông già dặn cứ chơi vui chừng nào về cũng được. Tôi lang thang giữa những rẫy dưa hấu tàn mùa, chỉ còn mấy trái đèo nằm chèo queo trên cát. Những gốc cây dạt lên bãi sau cơn biển động nằm chỏng gọng. Vài người đàn bà đi mót củi không nói cười. Đơn độc giữa bãi biển là căn chòi canh giữ của hợp tác xã nghêu giống, nóc cắm ngọn cờ le lói. Xóm cồn nhà nào cũng thấp, phần lớn cất bằng vật liệu tạm bợ. Báo viết cồn cát này sắp bị biển nuốt mất, nhưng mấy thím đang ngồi làm cỏ rẫy thì lia mũi dao về phía trời ngó bộ rất coi thường, “ối người xứ này đất bồi thì ở đất lở thì đi, lo cũng không khỏi...”. Lội bộ mỏi chân nên ghé một nhà có ông già đang ngồi tư lự, hỏi nhà mình sống bằng nghề gì, ông tỉnh bơ cười, “qua ăn trộm”. Mắt không hề chớp. Thì ra là trộm nghêu giống của hợp tác xã mà chính ông cũng là xã viên. Hồi trước nhà ông có vài công đất rẫy nhưng bị sóng nuốt mất rồi, giờ không cào nghêu trộm thì chết đói. Ông nói không trông mong gì cái ban chủ nhiệm toàn là vơ vét lấy cho đầy túi họ. Đang ngồi có người đàn ông tạt vô uống mấy ly trà, nói vài câu qua quýt, còn vô bếp lục nồi ra chiều thân mật lắm. Chừng khách đi rồi ông già mới nheo mắt khinh bỉ nói, “Phó chủ nhiệm hợp tác xã đó, như mật thám hồi chiến, suốt ngày đi thăm dò, bếp nhà qua mà có thịt là nó biết qua cào nghêu của nó…”. Nhưng trong bếp không có gì ngoài mấy con cá kho quéo, dưa hấu non xắt nhỏ xào mở tỏi. Ông già thấy tôi hơi xót cho bầy con nít lủ khủ đầy nhà nên hạ giọng thầm thì, “thịt heo bà vợ qua giấu trên giàn củi, đợi khuya mới cho tụi nhỏ ăn…”

Sau chi tiết đó thì tôi thấy cái xóm cồn nhỏ này trở nên thênh thang. Mấy chục nóc gia bị cắt vụn bởi cuộc chiến giành giật miếng ăn. Biển nuốt đất nên trả lại cho người một bãi nghêu, được nghêu thì tình người hao khuyết. Chòm xóm mặt cười với nhau mà lòng lạnh. Như màu trăng giữa nắng. Như cây bần, như rừng bần, đứng kề mà như rời ra, cô độc.

Tôi bỏ ra chỗ chiếc ghe đang đậu chờ dưới mé rạch. Ông già đang nhả khói hơi ngạc nhiên, hỏi sao tôi chơi ít vậy. Tôi than xóm này buồn quá. Ông ờ ờ quăng điếu thuốc hút dỡ xuống rễ bần, nói nhẹ bâng, “Mấy bữa trước, ngay trân đêm hội lăng Ông, có người ăn trộm nghêu bị bắn què giò…”

Câu chuyện làm tôi muốn lập tức quay về, nhưng thằng nhỏ cháu của ông già chạy chơi đâu mất. Ông già réo gọi hoài không được, sợ du khách phật ý nên rốt cuộc ông già bỏ thằng nhỏ lại. Ghe đi một đoạn thì thấy trên bờ thằng nhỏ dọt theo kêu ngoại ơi ngoại. Ông già lầm lì như không ngó thấy. Thằng nhỏ chạy dọt qua khỏi đầu chiếc ghe rồi lội càn xuống đu mũi ghe leo lên. Ướt ròng, thằng nhỏ ôm bàn chân đang chảy máu ,chắc bị miểng ốc cắt, lấm lét ngó ông già. Nếu không liều nó sẽ phải lội bộ ba cây số, luồn qua bao vạt rừng bần, qua một con rạch mới có thể về đến nhà.

Suốt chặng đường từ mé biển về tôi ngồi giữa cơn im lặng của hai ông cháu. Trời im gió, những cây bần lặng yên không vẫy. Trả tiền công cho ông già xong bỗng nghe thằng nhỏ thỏ thẻ, “có tiền thì khuya nay mình khỏi đi cào nghêu, hả ngoại ?”.

Rừng bần thì đẹp lắm, nhưng buồn…

TIN BUỒN


ĐƯƠC TIN
NHÀ THƠ TRIỀU UYÊN PHƯỢNG
ĐÃ QUA ĐỜI TẠI TÂN HIỆP,BÌNH PHƯỚC
NGÀY 5 THÁNG NĂM TÂN MÃO
(NHẰM NGÀY 06 THÁNG 06 NĂM 2011)
HỎA TÁNG TẠI BÌNH HƯƠNG HÒA


XIN CHIA BUỒN CÙNG QUÍ QUYẾN
CẦU NGUYỆN NHÀ THƠ TRIỀU UYÊN PHƯỢNG
THANH THẢN RONG CHƠI CÕI KHÁC

trần áng sơn - cao huy khanh - nguyễn miên thảo - từ hoài tấn
viêm tịnh - nguyễn văn trai - văn viết lộc - cao thoại châu - phạm cao hoàng
nguyễn liên châu - hoàng lộc - dương đình hùng - hồ trọng thuyên
trần dzạ lữ - trần hoài thư - trần hữu dũng - mang viên long - vũ trọng quang

CAO HUY KHANH - VN HỒ SƠ HẬU CHIẾN 1975-2011(KÌ 75)



NHỮNG SỐ PHẬN KỲ LẠ

751- Vương Văn Nô
“CLB ÔNG BÀ CHÁU”
Thường dân sinh 1932 tại Sài Gòn. Sống ở TPHCM (2002).
Thương binh chống nạng với một chân giả về già vẫn chưa yên, thấy trẻ em nghèo thất học lang thang hư đốn không đành lòng bèn lập ra “CLB Ông bà cháu” nhằm tập trung chúng lại đưa về nhà dạy chữ và dạy đạo lý làm người.

Tất cả được chừng 100 em gọi ông bằng “ông Tư” như người ông ruột thịt trong gia đình.

Đó là niềm vui tuổi già của mình: “Trải qua 2 cuộc chiến tranh khốc liệt, giờ không nỗi đau nào bằng nhìn trẻ em nghèo không được học hành. Tôi không thể nào ngồi yên như vậy được.”

752 - Vương Văn Trung
NGƯỜI CÙNG KHỔ CƯU MANG NGƯỜI CÙNG KHỔ
Thường dân sinh 1953 tại Hà Nội. Sống ở Hà Nội (2006).
Bộ đội có mặt trong trận chiến bảo vệ Thành cổ Quảng Trị 1972.
Thương binh xuất ngũ vừa nhiễm CĐDC vừa còn mang một mảnh bom trong tim và trong phổi trái. Sinh 2 con đều bị thiểu năng trí tuệ, mắt lác, viêm đa khớp không đi lại được. Năm 2004 còn phải mổ ung thư dạ dày. Chỉ trông mong vào lương hưu 2 vợ chồng (vợ công nhân) để trang trải mọi thứ.

Vậy mà vì lòng thương nguời nên trong nhà còn nuôi thêm một cụ già neo đơn không ai chăm sóc lại bị mù 2 mắt cộng thêm bệnh tiểu đường trong hơn 20 năm cho đến đến ngày cụ mất (từ 1983 – 2005).

753 - Xuân Đức
NHÀ VĂN CUỐC ĐẤT
Nhà văn tên thật Nguyễn Xuân Đức sinh 1947 tại Quảng Trị. Sống ở Quảng Trị (2011).
Năm 1965 vừa tốt nghiệp phổ thông xung phong đi bộ đội chiến đấu trên chiến trường quê hương quen thuộc Cam Lộ.

Sau 75 có thời gian xin tạm ra quân về quê nhà khai khoản đấùt hoang trồng trọt nuôi mẹ già và đàn con nhỏ. Năm 1979 được quan tâm cho đi dự trại sáng tác rồi học Trường Viết văn Nguyễn Du thì không có đủ tiền tàu xe, sinh hoạt và nuôi vợ con nữa nên phải tận dụng… đi buôn lẻ!

Năm 1982 tốt nghiệp ra trường thuộc đơn vị ở Hà Nội (Nhà hát kịch Quân đội) nhưng vẫn xin về Quảng Trị vừa sáng tác vừa tranh thủ… cày cuốc! Vậïy mà vẫn không thoát được kiếp nạn: Cháy nhà cháy sạch tất tần tật kể cả áo quần con cái khiến con phải mặc quần đùi đến lớp bị cô giáo đuổi về khóc nức nở!

Vẫn cặm cụi vượt lên tất cả vừa tiếp tục làm vườn vừa làm nhiệm vụ ở đoàn kịch vừa tranh thủ viết lách.

Bù lại sau đó là thành công gây tiếng vang của những cuốn tiểu thuyết “Cửa gió” (2 tập, 1980-84), “Người không mang họ” 1984; kịch “Tổ quốc” (viết chung với Đào Hồng Cẩm), “Người mất tích”, “Cái chết chẳng thể dễ dàng gì”, “Aùm ảnh”… Đặc biệt viết kịch rất nhiều đủ thể loại từ kịch nói, kịch thơ, kịch hát và cả kịch bản phim truyền hình.

Năm 1990 chuyển ngành – hàm trung tá – về Sở Văn hóa – Thể thao Quảng Bình. Và cuối cùng năm 1995 lên tới chức…giám đốc sở đến 2006 nghỉ hưu. Tiếp tục viết kịch “Chuyến tàu tốc hành trong đêm”…

754 - Xuân Vũ
VIẾT SÁCH CHỐNG CỘNG NHIỀU NHẤT
Nhà văn tên thật Bùi Quang Triết sinh 1930 tại Bến Tre – Mất 2004 ở Mỹ (75 tuổi).
Tham gia kháng chiến chống Pháp ở miền tây Nam bộ cùng thời với Sơn Nam, làm phóng viên chiến trường.

Năm 1954 tập kết ra Bắc chuyển qua viết văn được kết nạp Hội Nhà văn VN, bạn của các nhà văn Nam bộ tập kết như Anh Đức, Nguyễn Quang Sáng.

Năm 1963 trở lại chiến trường miền Nam, hoạt động ở miền đông rồi miền tây Nam bộ ngay tại quê hương Bến Tre.

Bất ngờ năm 1971 ra đầu thú chính quyền Sài Gòn tại Bến Tre với lý do thất vọng về chủ nghĩa cộng sản thực tế không như lý tưởng từng ấp ủ thời trẻ. Được chế độ Sài Gòn tin dùng cử làm làm quan chức cao cấp Nha Chiêu hồi (chiêu hồi Việt cộng) rồi sau chuyển về Đài Mẹ VN do Mỹ lập ra.

Trong thời gian này bắt đầu cho xuất bản các cuốn hồi ký chống Cộng kể về khoảng thời gian vượt đường Trường Sơn vào Nam như “Đường đi không đến”, “Xương trắng Trường Sơn”, “Đến mà không đến” có hiệu quả khá thuyết phục vì kể chuyện người thật việc thật bản thân mình từng trải qua. “Đường đi không đến” được tặng giải thưởng văn học nghệ thuật của chế độ cũ 1973.

Trong biến cố 30.4.75 lên tàu chạy qua Hong Kong rồi đến Mỹ.

Tại Mỹ sau thời gian đầu làm nghề khác để nuôi 5 con đồng thời vẫn dành thời gian để viết tiếp. Đến 1989 nghỉ làm ngoài hẳn để bắt đầu tập trung sáng tác. Với sức viết khủng khiếp trong khoảng 27 năm đã viết đến gần 80 tác phẩm trong đó in 74 cuốn qua 10 nhà xuất bản hải ngoại (riêng “Đường đi không đến” tái bản 8 lần).

Tất cả đều chuyên chú vào chủ đề chống Cộng dù là hồi ký (mảng sáng tác thành công nhất: “Mạng người lá rụng”, “Kẻ sống sót”, “Đỏ và Vàng”, “Khúc ruột người Nam”, “Trả ta sông núi”, “2.000 ngày đêm trấn thủ Củ Chi”, “Văn nghệ sĩ miền Bắc mà tôi biết”…), truyện ngắn (6 tập), tiểu thuyết xã hội, tiểu thuyết “đồng quê”, truyện dã sử, khảo luận… Cả viết báo cũng rất nhiều nữa

Về già mắc bệnh vẫn cố giấu bệnh để viết xem như là một thiên chức cao cả theo gương nhà văn Liên Xô ly khai cộng sản A. Soljenitsyne (1918-2008) Nobel Văn học 1970: “Viết văn đối với tôi là một việc cao quý mà gian khổ và đau khổ, lắm khi đầy đe dọa nữa.”

Mất đúng ngày đầu năm mới 1.1.2004.

HẾT ĐỢT I – KỲ TỚI BỔ SUNG ĐỢT II

GIỮA DÒNG BÂNG KHUÂNG - HẠ NHIÊN THẢO

Ngẩn ngơ nước mắt đợi chờ
Tàn đêm thao thức thẩn thờ ngóng trông
Trăng loan giọt nhớ trong lòng
Mai về ... em vẫn giữa dòng bâng khuâng

HNT

Vòng Mặt Trời

MÙA PHƯỢNG HỒNG - PHẠM CAO HOÀNG

có ai qua đó góp dùm tôi
những đám mây bay trắng một trời
những bông phượng đỏ màu nhung nhớ
gửi làm quà tặng buổi chia phôi

sẽ xa, thôi cũng đành xa nhé
người về cuối bãi kẻ đầu sông
có chút gì đau như cắt ruột
tay chào, tay vẫy, nón che ngang

sẽ xa, ừ thôi nhé đành xa
rồi mai trên những lối tôi về
tôi biết lòng tôi nghe rộn rã
nhịp guốc ai đùa trong nắng trưa

bỗng dưng tôi thấy mình tiêng tiếc
những tà áo trắng nắng nghiêng nghiêng
những bàn tay giở lần trang sách
e ấp tờ thư trước cổng trường

có ai qua đó hái dùm tôi
những đóa hoa thơm ngát một thời
ép vào tim để nghe thương nhớ
để nghe sầu giạt đến muôn nơi

sẽ xa, thôi cũng đành xa nhé
người về cuối bãi kẻ đầu sông
bóng hoa bay mấy chiều tan tác
hoa rụng ba năm trắng bến hồng

rồi mai khi gió mùa thu tới
khi nắng tàn phai trên lối xưa
có biết người xa xôi trở lại
hay là biền biệt đến muôn thu

trời bỗng mang mang, đất ngậm ngùi
những tà áo trắng năm xưa ơi
có ai qua đó cho tôi gửi
một trái tim đau của một thời

1 9 7 3
P C H

NHỮNG KHOẢNG TRỐNG - ĐÔNG HÀ

Cắt những khoảng trống dán vào nhau
bần bật phúc âm bần bật nhớ
nỗi này lấy màn đêm che lại
vẫn u u... những tiếng giang đầu

đận này gió thổi như mau
mà lòng mình khóc chậm
nên chùi hoài nước mắt không khô

messenger
cài nhầm địa chỉ
như lá khô thành rác giữa lưng chừng

để cuối cùng những khoảng trống cầm lưng
quay nơi nào cũng nhớ

ai đi ngưng chiều...

ĐH
(Trích Năm Mặt Đặt Tên)

NHỚ ƠI NGUỘI BỚT CHO NHỜ VỚI - NGUYỄN NGỌC TƯ

Hồi trước, lần nào tôi gọi điện thì chị cũng giòn tan nói nhằm nhò chi có sao đâu, buồn gì buồn hoài. Lúc đầu mấy mẹ con cũng sốc, giờ quen rồi, vui lại rồi, trước người ta cũng vắng nhà, đi công tác suốt, giờ không khác gì mấy…

Sau câu nói đó, tôi tin ở chỗ thị trấn Ga xa xôi kia, chị đang cắn môi nhừ. “Người ta” mà chị nhắc qua là anh chồng mủ mỉ ít nói hay cười yêu chiều vợ con, chị vẫn thường khoe và tôi cũng đã gặp vài lần, thầm khen chị ấy lấy được thằng cha tử tế. Như thường lệ, bảy tháng rồi anh vắng nhà, điều duy nhất khác là anh bỏ đi sống cùng người đàn bà khác. Ba mẹ con chị như gặp ác mộng, sống những ngày ngơ ngẩn, choáng váng bước hụt bước hẫng, liêu xiêu sống dựa vào nhau. Thời gian trôi cũng chông chênh như người chông chênh đau. Lâu lâu tôi hoặc gọi điện hoặc nhắn tin, nói vài câu tếu táo vui, hỏi thăm chuyện trên trời dưới đất, tự thấy mình như đưa cho chị chiếc khăn thấm bớt nước mắt. Lại nghe chị cười, khoe, mấy mẹ con mới đi núi về nè, tuần tới chở nhau đi biển, còn tính viếng chùa xa… Lại nghe tôi nói, ừa, ráng vui vẻ nghen thay cho câu tạm biệt. Lại giật mình sau đó, trời đất, chị có than buồn đâu mà mình kêu vui. Rõ ràng là chị nói, “chuyện như chiêm bao vậy mà, tỉnh ra là hết. Nghỉ hè nên tranh thủ đi chơi thôi. Ờ, ờ, hè năm trước…”
Câu nói bỗng dừng phắt ở đó, đứt đột ngột, tôi đoán là do bóng anh chồng xuất hiện thấp thoáng trong cái “hè năm trước…”. Và anh này sẽ còn trở đi trở lại trong ngày tám tháng ba năm trước, quốc khánh năm trước, đám giỗ ba năm trước, đám cưới đứa em năm trước, ngày này năm trước… Cái năm trước từng rất ngọt ngào, đầm ấm. Năm trước của thời chưa mất, hạnh phúc chưa bị bão, tình yêu chưa tỉnh chiêm bao. Giờ thì trở thành nỗi ám ảnh của đỉnh núi với vực sâu.
Giờ thì năm trước hay dẫn anh chồng quay về nhà. Bứt không đứt, dứt không rời, bứng không xong. Anh ta vẫn lảng vảng, vẫn âu yếm nói cười, nhưng lại gây đau như cầm cây dao lụt nhách mà cứa trên da thịt chị. Thiệt không biết làm sao để quên phứt cho rồi, có bữa đang khoe vui lắm vui thiệt bỗng chị thở dài, than vậy.

Tôi nói tôi cũng không biết, chưa có kinh nghiệm vụ này (mà cũng không mong có kinh nghiệm đâu nghen). Tôi hình dung ra một cách là chờ, cứ để người đàn ông (từng) yêu dấu quay đi quay lại với cây dao gỉ sét đó (nỗi đau đôi khi cũng giết người như bệnh uốn ván, chớ giỡn). Chờ tới ngày thứ ba trăm sáu mươi sáu, ký ức cũng mòn, chị không đủ kiên nhẫn mà ngậm ngùi dài nhằng, “ngày này năm trước năm trước nữa…”. Thật ra cái năm trước năm trước đó tự nó không muốn quay lại, đã xa xôi, mòn mỏi lắm rồi. Anh chồng chị sẽ về nhà ngày một ít dần, chỉ còn mỗi năm một lần, đúng ngày kỷ niệm cơn lốc mang tên Bội Bạc cuốn anh ta đi mất.
Ờ, thì chờ. Như thể chờ củi tàn, bớt lửa. Một mùa hè nữa. Gọi tìm nhau hỏi chị lúc này sao, chị giòn tan vui lắm em ơi hết sạch buồn rồi, mấy bữa trước mấy mẹ con dọn cái kho, thấy đôi dép của người ta, chị không còn cảm giác gì hết, đem bán ve chai.
Trời, tôi nghe mà tuyệt vọng quá, thì ra anh ta vẫn về nhà phá rối mẹ con chị bằng nhiều cách khác, bằng đôi dép, cái khăn, bậc thềm, cánh cỗng… Những thứ vô tình nên đã vô tình giữ lại hình ảnh anh trên sợi vải, cây đinh, thớ gỗ, viên gạch…
Chắc chị chỉ có cách bán nhà đi khỏi chỗ này, nhưng con đường, hàng cây, cái chợ, và thị trấn Ga buồn xo run rẩy mỗi khi có tàu qua, cả những đoàn tàu kia làm sao mà bán được? Ngay khi chị yêu một người đàn ông khác, cũng không sao trốn khỏi những ý nghĩ bỗng dưng, chồng cũ của mình không có nhiều râu như người này, ông chồng cũ thẳng thớm lắm, không phong trần như người này, hồi xưa ông chồng kia cũng vậy, rất dịu dàng…

Cây dao lụt của anh chồng, thời gian đã làm mòn tận cán, nhưng hình ảnh anh trong ký ức tự nó cũng gây đau. Chị ơi cố chờ đến năm sau năm sau năm sau năm sau…

KHÁT - TRẦN DZẠ LỮ



Anh cố dìm cơn khát
Giữa sa mạc đời mình
Lặng lẽ làm Bồ Tát
Nơi gió bụi buồn tênh…

Anh cố dìm cơn điên
Giữa khuya tàn ánh nến
Và cố câm-như-hến
Đi cho hết đời quen !

Đi xuyên qua ưu phiền
Đi xuyên qua nắng lửa
Thế gian này mông mênh
Tìm đâu ra một nửa ?

Lần lữa dìm cơn khát
Dìm luôn bản ngã mình
Nhưng ,tình cờ em đến
Địa chấn lại bừng lên …

Đất trời cũng ngả nghiêng
Bến bờ xưa dậy sóng
Có thêm nghìn cơn khát
Nhấn chìm anh và em !

Không biết ngày và đêm
Không biết trăng sao hỉ ?
Chỉ còn mình nguyên thủy
Tận hiến nhau triền miên…

Trần Dzạ Lữ
( Tháng 4 năm 2011 )

CAO HUY KHANH - VN HỒ SƠ HẬU CHIẾN 1975-2011(KÌ 74)

NHỮNG SỐ PHẬN KỲ LẠ


741 - Vũ Thanh Hải
ĐẤU TRANH “TRÁNH ĐÂU”
Nông dân sinh tại Vĩnh Phúc. Sống ở Vĩnh Phúc (2010).
Năm 1971 nhập ngũ vào binh chủng tăng – thiết giáp chiến đấu ở miền Nam. Được kết nạp Đảng, được tặng thưởng 3 huân huy chương vì chiến công đánh Mỹ.

Năm 1994 xuất ngũ thương binh hạng 2.

Về quê Vĩnh Phúc được bầu làm trưởng thôn thuộc xã Tiền Phong, huyện Mê Linh.

Đầu năm 1999 đứng ra đấu tranh với một số cán bộ chủ chốt cấp xã có hành vị tiêu cực sai trái lạm dụng chức quyền gây hại cho người dân. Đấu tranh từ xã lên tới cấp huyện, kết quả được cấp trên ủng hộ đưa các ông quan xã bậy bạ đó ra tòa lãnh án

Nhưng bù lại ở địa phương, bản thân bắt đầu bị nội bộ tay chân quan chức cũ còn lại tìm cách o ép, hãm hại vu cho tội gây mất đoàn kết nội bộ để… khai trừ Đảng!

Lại phải bắt đầu một cuộc chiến đấu mới đòi lại đảng tịch hết sức gian nan mệt mỏi vẫn chưa biết bao giờ có có đoạn kết.

742 - Vũ Thành
BEETHOVEN VIỆT NAM
Nhạc sĩ Việt kiều Mỹ sinh 1926 tại Hà Nội – Mất 1987 ở Mỹ (62 tuổi).
Là nhạc sĩ trong thế hệ tiên phong làng nhạc VN từng nổi tiếng từ thời Tiền chiến, chuyên về hòa âm và chơi nhạc phòng trà hiếm hoi thời đó, có lúc làm nhạc trưởng ở Đài Hà Nội thời Pháp.

Năm 1954 di cư vào Nam gia nhập quân đội VNCH làm tới chức trung tá trưởng đoàn quân nhạc, trưởng ban văn nghệ đài phát thanh, 3 năm liền nhận giải thưởng âm nhạc của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu.

Chuyên về nhạc thính phòng, đại hòa tấu, chỉ huy dàn nhạc từng tổ chức hòa âm cho 200 ca khúc xuất sắc để phổ biến công chúng miền Nam. Sáng tác không nhiều khoảng 20 bài đều theo khuynh hướng nhạc thính phòng cao cấp trong đó nhiều bài không lời. Nhạc có lời chỉ khoảng 5 bản song đều đạt chất lượng trình độ cao gồm”Giấc mơ hồi hương”, “Nhặt cánh sao rơi”, Gửi áng mây hàng”…

Biến cố 30.4.75 di tản qua Mỹ rút vào đời sống ẩn dật.

Về già mắc một số chứng bệnh ảnh hưởng từ môi trường nhạc giao hưởng, đại hòa tấu gần giống như thiên tài Đức Beethoven: Tai bị điếc, hư thanh quản nói không ra tiếng, đã vậy mắt mờ phải bịt giải băng đen chéo ngang mặt. Nhưng gặp bạn tri âm vẫn nói thều thào nghe tiếng được tiếng không vẫn xoay quanh chủ đề… âm nhạc muôn đời!

743 - Vũ Thành An
TỪ NHỮNG “BÀI KHÔNG TÊN” ĐẾN NHỮNG “BÀI NHÂN BẢN”
Nhạc sĩ Việt kiều Mỹ sinh 1943 tại Nam Định. Sống ở Mỹ (2011).
Tác giả của loạt ca khúc những “Bài không tên” nổi tiếng thập niên 60-70 ở Miền Nam, một số bài chủ lực bắt đầu viết từ 1963 xuất phát từ hoài niệm các cuộc tình tan vỡ của mình.

Làm phóng viên Đài Phát thanh Sài Gòn rồi bị gọi đi lính sĩ quan trường Thủ Đức năm 1967. Ra trường về lại đài phụ trách chương trình văn nghệ cùng một số chức vụ khá quá trọng ở đài. Lập gia đình 1969.

Sau 75 do làm quan chức đài phát thanh nên phải trải qua 10 năm cải tạo. Chính trong thời gian cải tạo đã mở ra cho mình một con đường hoàn toàn mới: Tìm đến với đạo Thiên Chúa, rửa tội trong tù sau khi nhờ một linh mục chỉ cách đọc kinh để quên đời mới dứt được căn bệnh kinh niên mất ngủ. Từ đó năm 1981 bắt đầu viết thánh ca từ trong tù.

Năm 1985 trở về thì vợ đã chia tay phải một mình “gà trống nuôi con.” Năm 1987 lấy vợ mới.

Đến 1991 mới qua Mỹ.

Sau khi qua Mỹ có bị tố cáo là trong trại cải tạo đã tỏ thái độ “đầu hàng cộng sản” được cho làm tổ trưởng khiến phải lên tiếng “xin lỗi”!

Ở Mỹ có làm thêm vài tình khúc sở trường -- “Bài không tên cuối cùng tiếp nối”, “Đời đá vàng”… -- và in tập “Vũ Thành An tình khúc toàn tập” gồm 40 bài không tên, 13 tình khúc “có tên”, 40 nhạc khúc phổ thơ.

Đến năm 2000 chính thức nói lời từ giã với thể loại tình ca bằng một đêm trình diễn tình ca cuối cùng để bước vào hành trình tu tập (học cao học thần học) để làm Trợ tế đạo Thiên Chúa, một chức mục vụ dành cho tín đồ phụ việc linh mục giống như cư sĩ bên đạo Phật. Đồng thời cũng từ đó chuyển sáng tác của mình qua một hướng khác là viết nhạc đạo là những “bài nhân bản” của thế giới tâm linh đưa tinh thần Phúc âm vào đó: “Năm 1966 tôi đã hứa rằng sẽ không viết nhạc tình nữa để dành thời gian và tâm sức vào con đường tâm linh đã chọn.” Thay nhạc tình bằng những tuyên ngôn mới như:
“Từ đầu trời cuối đất ta đã là người nhà
Về đầu trời cuối đất ta vẫn một mẹ cha
Hãy xích lại đây chắp tay nguyện cầu…”
(Bài “Nhân bản 1” năm 1983).

Những tuyên ngôn mới về niềm tin tôn giáo được “nhạc hóa” có vẻ không thành công lắm bằng các tình khúc xưa, bù lại năm 2001 được phong chức Phó tế Đạo Thiên Chúa ở tổng giáo phận Portland. Song song vẫn làm đài phát thanh hải ngoại và ngoài ra còn tham gia lập Quỹ cứu trợ Teresa năm 2003 nhằm giúp đỡ cứu trợ người già neo đơn ở VN.

744 - Vũ Thị Lưu
CÒN HƠN NHIỀU “EM HIỀN NHƯ MA SOEUR”
Nông dân sinh khoảng 1945 tại miền Bắc. Sống ở Đồng Nai (2011).
Trước 75 từ Vũng Tàu cả 3 chị em đều đi tu dòng Thiên Chúa, riêng mình tu học ở Cần Thơ.

Trong một dịp về vùng quê quen một thương phế binh chế độ Sài Gòn tín đồ cùng đạo bị mù và què phải đi đánh đàn bến xe độ nhật.

Sinh lòng thương cảm mới tình nguyện lấy làm chồng dù gặp sự phản đối của cả gia đình lẫn đồng đạo, thậm chí còn cho là mình bị “bỏ bùa”! Nhưng vẫn dũng cảm chấp nhận cởi áo nữ tu đi theo tiếng gọi của niềm tin tôn giáo chân chính, xem như đây là một cách làm theo lời Chúa dạy đi tu không chỉ là sống trong tháp ngà lý thuyết mà cần hướng ra cuộc đời bên ngoài trải lòng hy sinh phục vụ con người.

Đưa chồng về quê chồng ở Long Xuyên làm thợ may và làm mắm đem bán chợ nuôi chồng (chồng chưa kịp hoàn tất hồ sơ thương binh lãnh tiền phụ cấp chế độ cũ thì giải phóng).

Sau 1975, gia đình chồng vượt biên bỏ 2 vợ chồng ở lại nên phải đưa chồng về Vũng Tàu nhờ mẹ thương tình cho một mảnh đất ở xa làm nhà tạm mà ở (không dám cho ở gần sợ bị hàng xóm dị nghị), buôn bán vặt sống lây lất qua ngày.

Một thời gian sau, gia đình chồng gửi tiền về trợ giúp mua được mảnh đất ở Long Thành (Đồng Nai) dời về sinh sống tránh xa những ai quen biết thường tiếng ra tiếng vào chê bai dân “bỏ đạo”. Nhưng vẫn tạo dựng được mái ấm gia đình hạnh phúc đầm ấm, sinh được 3 trai ngoan khôi ngô đĩnh đạc.

Mẹ chồng còn làm giấy bảo lãnh qua Mỹ song tuy đã làm xong hồ sơ, cuối cùng người chồng thương phế binh lại quyết định không đi nữa như một cách cảm tạ ơn Thiên Chúa đã cho mình được hưởng phước lành nơi đây rồi mà nếu đi nơi khác chưa chắc gì đã được như vậy!

Năm 2006 chồng qua đời. Bây giờ con cái đã trưởng thành ra đời làm ăn đàng hoàng lấy vợ sinh cháu cho mình ẵm bồng, lòng càng thanh thản với niềm tin sống đạo giữa lòng nhân gian dù gian khó nhưng mới cao quý biết dường nào.

745 - Vũ Thị Minh Nghĩa
CHỊ “NĂM KHÙNG”
Bộ đội về hưu sinh 1952 tại Thái Bình. Sống ở Bình Dương (2011).
Gia đình nông dân, học chỉ mới tới lớp 7. Năm 1930 vào bộ đội chiến đấu trên chiến trường miền đông Nam bộ từ Long An đến Sông Bé, Tây Ninh. Làm y tá nên từng nhiều lần tự tay đào hố chôn xác đồng đội.

Sau 1975 về Hải Hưng sống, lấy chồng từng là lính lái xe Trường Sơn, sinh được 2 trai 2 gái. Năm 1978 được cho đi học Đại học Y ở Thái Bình

Năm 1992 được cho nghỉ mất sức hàm thượng úy.

Sau khi về hưu, gia đình ổn định con cái đã khôn lớn bỗng nhiên nằm ngủ thường gặp ác mộng mơ thấy cảnh đồng đội hy sinh thịt nát xương tan thê thảm mà nay không tìm thấy được, không biết lưu lạc về đâu. Tiếp đó mắc chứng đau đầu kinh niên không sao chữa khỏi dẫn đến một cơn bệnh nặng tới mức chết lâm sàng 12 tiếng đồng hồ rồi đột nhiên tỉnh dậy sống lại!

Từ đó phát sinh ra khả năng ngoại cảm có thể tiếp xúc với ngườøi “thế giới bên kia” chủ yếu là liệt sĩ đồng đội cũ về báo tin hài cốt mình hiện ở đâu. Nhiều người không tin mới gọi là mụ “Nghĩa điên”!

Bất chấp tất cả, năm 1985 một mình lên đường làm một cuộc “hành quân” mới quay lại chiến trường cũ Tây Ninh (và qua cả huyện Campuchia giáp ranh) để truy tìm hài cốt đồng đội.

Với bộ quân phục bạc màu đầu đội khăn rằn kiểu bà má Nam bộ mình từng quen trong chiến khu thời chiến tranh, mang theo ba lô đựng hành lý gạo, mì sợi, mắm muối và một cột vải ny lông tự lặn lội vào những cánh rừng xưa tìm bốc mộ đồng đội. Ở lại đó hàng tháng trời ròng rã, tìm được mộ thì cuốc lên nhưng đến phần hài cốt thì bỏ cuốc “sợ làm đau xương cốt bạn” mà phải dùng tay bới lên, xong dùng vải ny lông gói lại và đem về quy tập tạm trong một hang đá để lại tiếp tục tìm mộ khác. Hết gạo, mì sợi để ăn thì đào củ mài, hái lá tàu bay, trái cây lót dạ như bộ đội thời gian khổ trước kia, “tranh ăn” với cả… khỉ trong rừng!

Khi đã gom được kha khá bộ hài cốt – có ngày đào được 15-20 bộ hài cốt, có tuần khai quật được 54 bộ hài cốt tập thể thuộc một đại đội tử trận năm 1964 -- thì bỏ vào ba lô đeo sau lưng và trước ngực (hoặc bó lại từng bó gánh đi) đưa ra thị trấn ra khỏi rừng, lội quá suối thì phải đội tất cả lên đầu để tránh làm ướt hài cốt dù bản thân người gầy gò như con mắm. Đưa tất cả về chứa trong một căn nhà ở Bình Dương do một gia đình liệt sĩ cho mượn ở nhờ. Sau đó mới tìm truy ra tông tích gửi thư cho gia đình đến nhận (cả kỷ vật tìm thấy kèm theo) hoặc xin quy tập vào nghĩa trang liệt sĩ tỉnh.

Hoàn toàn làm không công, không ai tài trợ, không nhận tiền của ai kể cả tư nhân lẫn chính quyền.

Hài cốt chồng chất cả nhà, sống chung với hài cốt tự nhiên như không, có lúc hài cốt nhiều quá bày ra chật cả nhà khiến mình phải mắc võng mà ngủ! Nhiều người nhìn thấy sợ quá không dám héo lánh tới, mới đặt tên cho là bà “Năm khùng” (vì là con út thứ năm).

Đến năm 1999 một nhà hảo tâm khác thấy hài cốt bề bộn quá nhà gần hết chỗ chứa mới giúp tiền và đất cho lập một “nghĩa trang tình thương” ỏ Vũng Tàu để tạm thời chôn hài cốt nào chưa có người nhận gồm khoảng 600 mộ có dựng bia đàng hoàng (tính đến năm 2000).

Nơi đây vừa là nghĩa trang vừa là nhà ở cũng là địa chỉ để thân nhân liệt sĩ liên hệ nhận hài cốt hoặc nhờ mình tiếp tục tìm mộ người thân bộ đội mất tích. Cho nên ở nhà mỗi tháng chỉ vài ngày rồi lại lên đường vào rừng góp nhặt hài cốt còn sót lại, công việc nghĩa trang giao cho con cái trông nom.

Bây giờ thì bà “Năm khùng” trở thành chị “Năm Nghĩa”: “Nghĩa” là tên tục mà cũng là ý nghĩa việc làm của người đàn bà lạ lùng với tâm nguyện: “Mong làm sao các đồng chí được trở về quê hương, đoàn tụ với gia đình, có một nấm mồ để cho người thân thắp nén hương tỏ lòng thành trong những ngày lễ tết ấm lòng người nơi chín suối. Nhiều đồng chí trên 30 năm, 40 năm, thậm chí 50 năm mới được trở về gia đình, đó là niềm vui nhất của tôi.”

746 - Vũ Trọng Nhượng
“NGƯỜI NHÁI” LÊN BỜ BÓ TAY
Nông dân sinh 1944 tại Hải Phòng. Sống ở Nha Trang (2002).
Nhập ngũ năm 1964 vào thẳng binh chủng hải quân ngay do thể hình tự nhiên có sẵn tứ chi to dài khác thường rất phù hợp nghề bơi lặn. Sau đó nhanh chóng được đào tạo làm trinh sát đặc công biển, một đơn vị mới tương tự “người nhái” của hải quân VNCH (theo huấn luyện kiểu Mỹ).

Năm 1967 được chuyển vào chiến trường Nha Trang chuyên đặt mìn phá nổ tàu Mỹ lập nhiều chiến công vang dội trong đó có trận đánh chìm tàu Mỹ chứa vũ khí và chất độc hóa học năm 1969. Năm 1973 bị thương nặng đồng đội tưởng đã hy sinh rồi.

Sau chiến tranh, năm 1976 lấy vợ là một cô giáo thôn nữ Khánh Hòa .

Năm 1979 đang làm nhiệm vụ ở Gia Lai thì lên cơn động kinh nguy hiểm do hậu quả bị nhiễm chất độc hóa học (có thể cả CĐDC) trên tàu địch năm xưa. Sau đó sức khỏe suy kiệt nên đành làm đơn về hưu non hàm đại úy.

Từ đó ở lại luôn quê vợ Diên Khánh làm ruộng, sinh đến 7 con trong đó đứa con trai út còn bị di chứng từ cha khiến mới sinh ra đã bị lệch 2 mắt mà thị lực lại kém. Cuộc sống thời hậu chiến ngày càng khó khăn nên vợ phải nghỉ dạy ở nhà lo nuôi chồng con nheo nhóc.

Bản thân mình bệnh hoạn – bệnh mất ngủ triền miên -- chẳng đỡ đần gì cho vợ được bao nhiêu, tiền hưu phải chu cấp cho bố mẹ ở xa trong khi thẻ thương binh chưa làm được do… không có tiền đi làm thủ tục nhiêu khê.

Đồng đội có biết chuyện lúc đó cũng chỉ còn biết thở dài cám cảnh “Anh hùng nhất mà cũng là người thua thiệt nhất”!

747 - Vũ Văn Tỵ
VỢ CHỒNG XE LĂN
Lao động nghèo sinh tại Bình Dương. Sống ở TPHCM (2010).
Năm 1974 trong một lần chạy nạn chiến tranh bị trúng mảnh bom cụt chân trái.

Sau khi hòa bình lập lại, lấy vợ nhưng bản thân bị tàn tật lại gặp cảnh đời sống khó khăn thời hậu chiến nên không bao lâu gia đình lục đục. Nhân lúc mình lên Sài Gòn tìm việc làm, vợ đã lén bán nhà ôm tiền đi mất!

Thế là trở thành người vô gia cư chống gậy khập khiễng đi bán vé số mưu sinh trên đường phố TPHCM.

Trên con đường lầm lũi kiếm sống đó tình cờ lại gặp được một nữ đồng nghiệp gốc Nghệ An cũng gặp cảnh đời còn không may hơn cả mình mới 7 tháng tuổi đã bị sốt bại liệt nửa người nay ngồi xe lăn giong ruỗi trên dặm đường vé số. Hai mảnh đời bất hạnh gặp nhau tình nguyện chắp nối mong tìm kiếm được chút hạnh phúc nhỏ nhoi.

Đó là hạnh phúc quá giản đơn mỗi sáng ông dìu bà xuống gác rồi 2 người 2 xe lăn lên đường đi bán vé số, tối mịt mới về ông cõng bà lên gác, căn gác chỉ rộng 8m2 trong hẻm nhỏ: “Trải qua bao nhiêu mất mát giờ đây thật sự tôi mới càng trân trọng hạnh phúc mình đang có.”

Cả 2 đã tàn tật một người phải lết đi một người còn một chân đi không vững lên xuống gác cực quá sao không ở tầng trệt cho khỏe hơn? Trả lời cũng quá đơn giản là ở dưới không đủ tiền thuê nhưng “Ở thế này là tốt lắm rồi, không còn mong gì hơn nữa.”

748 - Vũ Văn Xoan
THƯƠNG BINH “NÁT NGƯỜI” VẪN VÔ ĐỊCH BÓNG BÀN
Thương binh sinh tại Hải Dương. Sống ở Hải Dương (2007).
Năm 1972 trên chiến trường Quảng Trị đã bị thương gần như “nát người” với 47 vết thương tất cả: Cụt cánh tay phải, nát hết chân phải, gãy chân trái, cụt cánh tay trái, xương lưng và cột sống bị tổn thương, lủng ngực xuyên đến bả vai, vỡ xương vai trái… Qua vô số lần giải phẫu vẫn còn sót lại trong người 6 mảnh đạn nằm chỗ hiểm không thể lấùy ra được.

Vậy nhưng từ khi còn nằm viện đã tự tập để chống nạng đi lại được, về nhà tự tập đi xe đạp. Và tìm thấy ở thể thao một cách rèn luyện phục hồi để mình có thể sinh hoạt như người bình thường. Chủ yếu tập trung vào môn bóng bàn.

Bắt đầu dự từ Đại hội Thể thao Người khuyết tật lần thứ nhất 1997 tổ chức ngay tại vùng đất máu lửa Quảng Trị năm xưa, đến Đại hội 1998 đã vượt lên giành chức vô địch đơn nam bóng bàn. Thừa thắng xông lên chiếm thêm 14 HCV khác trong đó có 1 HCV Đông Nam Á, 4 HCV quốc gia… Nhờ đó - tự khoe – 10 năm qua chưa hề tốn một đồng tiền thuốc chữa bệnh!

749 - Vương Kiều
“KẺ HÀNH HƯƠNG” BẤT ĐẮC DĨ
Nhà thơ tên thật Trần Vĩnh Tựu sinh 1950 tại Thừa Thiên – Huế. Sống ở TPHCM (2011).
Khi còn là học sinh cấp 2 ở Huế đã tham gia hoạt động cộng sản chống chế độ Ngô Đình Diệm.

Trong trận chiến Mậu Thân 1968 trở thành du kích có mặt trong đoàn quân chiếm đóng Huế. Được sau khi Việt Cộng rút đi đã bị bắt giam nhà tù chế độ cũ.

Một thời gian sau được thả ra nhưng do không bắt được liên lạc với cơ sở cũ và sợ tiếp tục bị mật vụ chế độ Sài Gòn truy lùng nên tìm đường lánh nạn… đi tu thành sư khất thực trốn lên Đà Lạt nương nhờ cửa chùa.

Sau 75 xem như được thoát nạn đã xuất hiện trở lại tham gia chính quyền mới được phân công phụ trách một bến xe. Nhưng được thời gian ngắn thì bỗng nhiên bị bắt lần nữa bởi chính quyền cộng sản đưa về thụ án ở Huế!

Ở tù một thời gian rồi được thả ra làm nghề lao động không sống nổi mới tìm đường vào Sài Gòn làm vài nghề tiểu thủ công nghiệp với bạn bè đắp đổi qua ngày vẫn không khá.

May sao rồi sau cùng cũng thấy được ánh sáng cuối đường hầm nhờ lấy vợ cùng quê có anh em vượt biên qua Đức gửi tiền về giúp đỡ. Thế là có vốn để lập nên một dạng đại lý du lịch phục vụ khách nước ngoài vào hàng đầu tiên ở VN làm ăn khấm khá giữa những năm 90. Từ đó nhanh chóng trở thành là một “đại gia” kiểu mới, một trong số ít người đầu tiên xài máy nhắn tin đeo nịt ngang hông kêu “tít tít”! Còn bỏ tiền in 2 tập thơ hoành tráng nữa.

Nhưng bỗng nhiên tất cả cơ ngơi, sự nghiệp đổ sập xuống tan tành như lâu đài xây trên cát vì tội… đèo bòng vợ bé khiến vợ lớn nổi giận hạ lệnh “cắt” toàn bộ! Đành chấp nhận thương đau vì nỗi cần con nối dõi mà vợ lớn không sinh được.

Thế là từ đó lại trở về với con số 0 to tướng sau bao lần lên voi xuống chó. Bấy giờ phải nai thân ra chạy chọt làm đủ thứ nghề – kể cả làm chuyện không hay bất đắc dĩ – để cáng đáng chuyện vợ con (may quá sinh được con đúng là con trai!). Có lúc định mang cả gia đình về quê Huế mở tiệm in lụa làm kế sinh nhai nhưng mới thấy công an xã hỏi thăm sức khoẻ sơ sơ – chỉ vô tình thôi - đã chột dạ lập tức bỏ của chạy lấy người!

Lại quay về TPHCM bôn ba đủ thứ việc song nay không còn cơ sở vật chất để gầy dựng lại cơ đồ khiến lâm vào cảnh đời sống khó khăn đưa tới năm 2010 vợ – vợ sau – bỏ đi để lại cho mình cảnh gà trống nuôi con càng lao đao vất vả cay đắng mùi đời một người từng lên cao tột đỉnh vật chất đột nhiên bị kéo tuột xuống gần đáy xã hội.

Chỉ còn niềm an ủi tự ru mình vào những giấc mơ khát vọng ở gần biên giới hoang tưởng chắc không bao giờ thành sự thật tìm lại được:
“Như kẻ hành hương đi qua sa mạc
Tôi uống nỗi buồn cho cơn khát dịu tan
Tội nghiệp cho tôi
Kẻ hành hương đi qua sa mạc
Tìm niềm vui trong cơn khát đời mình
……..
Tôi gom hết nỗi buồn này
Nhìn về trăm năm và hỏi vọng trời xanh
Trời xanh cao con người bé nhỏ
Con người đi trong cơn khát đời mình.”
(Kẻ hành hương).

750 - Vương Tấn Thơm
LIỆT SĨ SỐNG LẠI 32
Nông dân còn tên Nguyễn Hữu Nghị sinh 1945 tại Quảng Ngãi. Sống ở Quảng Ngãi (2002).
Mồ côi cha mẹ từ nhỏ sống với ông bác. Sống khổ quá nên theo cộng sản lên núi, đến năm 1964 được đưa ra Bắc đào tạo.

Đầu năm 1973 mang lon thiếu úy bộ đội quay lại chiến trường quê hương Quảng Ngãi. Không được bao lâu thì trong một trận đánh bị địch phục kích trúng đạn vào đầu ngất trên trận địa đồng đội tưởng đã mất tích hoặc chết rồi.

Không ngờ sau đó được đồng bào dân tộc Cor cứu mang về giao cho một bà mẹ dân tộc nuôi rồi gã con gái vừa đi thanh niên xung phong đường Trường Sơn về. Nhưng trí nhớ không hồi phục đầy đủ, quên cả gốc gác tên tuổi nên sau đó được đặt tên khác Nguyễn Hữu Nghị.

Vì vậy ở quê nhà cuối năm 1973 được chính thức phong liệt sĩ.

Năm 1977 dần nhớ lại được lai lịch mình bèn tìm về quê mới biết lâu nay gia dình ông bác đã lãnh tiền trợ cấp liệt sĩ của mình nên thấy không nỡ công khai sự thật rằng mình… chưa chế! Đành buồn tủi lủi thủi quay về quê vợ sống đời người dân tộc trên núi rừng vùng cao không quay về quê cũ nữa. Mà muốn về lại cũng không làm nổi bởi đẻ đến 9 đứa con, cả 2 vợ chồng làm cật lực vừa làm ruộng khô vừa đốt rẩy làm than cũng chưa đủ cái ăn.

Mãi đến năm 1998 sự thật mới tình cờ được phát hiện khi mình gặp một đoàn cán bộ huyện lên vùng núi này đi tìm hài cốt liệt sĩ mới hỏi thăm tin tức gia đình ông bác (đã mất 3 năm rồi). Khi đó người ta đi tìm liệt sĩ “thật” đâu không thấy mà lại thấy sờ sờ đó một liệt sĩ “giả”!

Nhưng từ đó đến việc làm hồ sơ thương binh là cả một chặng đường gian nan chưa biết bao giờ mới xong vì thời gian trôi qua lâu rồi mà giấy tờ, hồ sơ rơi rớt thất lạc hết rồi. Chỉ được cấp cho một nhà tình thương nhanh chóng xuống cấp tứ bề tơi tả cần 3 triệu đồng để sửa mái cho mưa khỏi dột mà chẳng biết lấy đâu ra, xin ai bây giờ…

(Còn tiếp)

KHI TRỞ LẠI THĂM PHỐ - HOÀNG LỘC

rồi mai nhớ phố anh về
vườn không – héo nụ tình thề rồi em
đây mùa hạ trắng man thiên
phượng bay đành dấu chân quen biệt mù

rồi mai ngày lỡ tàn lu
trong ta – em, kẻ tình thù mà thôi
chạy theo cho hết một đời
theo em ta khóc như thời thanh niên

mai này xin nhớ cho -
em
phố hôm qua có thằng điên tìm về
hồn khô bụi phủ bốn bề
vi vu cổ tượng đêm hè phố hoang

thôi mai sầu rỏ vai chàng
may ta có một đời tàn ngó theo
ôi em uổng tiếng yêu kiều
tài hoa nào bỏ lêu bêu thế này ?

HL

ĐOC THƠ TÌNH CỦA BẠN TRONG THƯ VIỆN - NGUYỄN MIÊN THẢO





Tưởng nhớ Nhà thơ Trầm Kha Nguyễn văn Đồng
hy sinh năm 1974 trong trận hải chiến ở Hoàng Sa

Ngồi đọc bài thơ tình của mày trong thư viện
Nỗi buồn xưa hóa đá nửa đời tôi (1)
Dấu vết (2) nào còn in trên sóng biển
Mày đi rồi từ thuở tuổi hai mươi

Mày ra đi trên con thuyền Tổ quốc
Mày hy sinh hơn cả anh hùng
Quân xâm lược thời nào chẳng có
Từ Trường Sa -phút cuối cùng-mày mơ một dòng sông

Dòng sông Hương mấy mươi năm vẫn đợi mày về
Người con gái vẫn đang ngồi xỏa tóc
Người mẹ hiền vẫn mong ngày sum họp
Sao mày đi biền biệt không về

Vườn đã cũ chim muôn về họp tổ
hót rất buồn đón những sáng thu phai(3)
Khu vườn cũ vẫn in hình bóng mẹ
Chim vẫn đi về ,mày đang ở nơi đâu

Tao đã khóc viết bài thơ tiễn biệt
Hơn ba mươi năm không bến không bờ
Phút cuối cùng mày đứng chào Tổ quốc
Tao chạnh lòng viết lại mấy vần thơ

Rằm tháng Bảy-Mậu Tý-2008

(1),(3) thơ của Trầm Kha
(2) nhan đề bài thơ

CẦN GIỮ NGUYÊN LẦU TỨ PHƯƠNG VÔ SỰ - BÙI NGỌC LONG


Nhân viên nữ đã được thay đổi đồng phục bằng áo dài truyền thống màu vàng sậm, nhưng hoạt động kinh doanh vẫn là hình thức của một quán cà phê - Ảnh: B.N.L

Ngày 6.6, sau hơn 10 ngày báo chí liên tục phản ánh, hoạt động kinh doanh dịch vụ giải khát ở di tích lầu Tứ phương vô sự (Đại nội - Huế) đã có chấn chỉnh.
Ngày 3.6, Thanh Niên có bài Chưa chấn chỉnh hoạt động kinh doanh dịch vụ ở lầu Tứ phương vô sự, sau bài báo này, trả lời báo chí, Phó giám đốc Trung tâm Bảo tồn di tích cố đô (BTDTCĐ) Huế, Phan Thanh Hải, nói: đã chấn chỉnh hoạt động kinh doanh dịch vụ ở lầu Tứ phương vô sự.


Ngày 6.6, PV Thanh Niên ghi nhận: trang phục của nhân viên phục vụ đã được thay bằng áo dài truyền thống (nữ) và quần tây áo sơ mi (nam). Ở tầng 1 của tòa lầu, bàn ghế đã được xếp gọn gàng hơn, ở giữa đã có trưng thêm một tủ kính (nhưng bên trong vẫn trống trơn chưa có sách, tài liệu hay ấn phẩm gì được trưng bày)... Tuy nhiên, cả tầng 1 và tầng 2 của lầu vẫn được trưng dụng để bán cà phê, giải khát.

Theo Luật Di sản văn hóa (DSVH), tại khoản 1, điều 13 đã quy định nghiêm cấm việc “chiếm đoạt, làm sai lệch di sản văn hóa”; điều 32 quy định khu vực I của di tích phải được bảo vệ nguyên trạng; Nghị định số 98/2010 Chính phủ ban hành ngày 21.9.2010, quy định chi tiết một số điều của Luật DSVH và sửa đổi bổ sung một số điều của Luật DSVH, điều 4 quy định: khoản 1: những hành vi làm sai lệch di tích, gồm: a) Làm thay đổi yếu tố gốc cấu thành di tích như đưa thêm, di dời, thay đổi hiện vật trong di tích hoặc tu bổ, phục hồi không đúng với yếu tố gốc cấu thành di tích và các hành vi khác khi chưa được phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về văn hóa, thể thao và du lịch, tuyên truyền, giới thiệu sai lệch về nội dung và giá trị của di tích; b) Làm thay đổi môi trường cảnh quan của di tích như chặt cây, phá đá, đào bới, xây dựng trái phép và các hành vi khác gây ảnh hưởng xấu đến di tích.
Di tích lầu Tứ phương vô sự là khu vực I, theo điều 32, Luật DSVH quy định là khu vực phải được bảo vệ nguyên trạng. Hoạt động kinh doanh dịch vụ cà phê, giải khát với việc trưng dụng toàn bộ tòa lầu Tứ phương vô sự, thuộc hệ thống di tích triều Nguyễn ở Thừa Thiên - Huế (di tích quốc gia thuộc hàng đặc biệt), là đã vi phạm khoản 1, điều 13 và điều 32 của luật này với hành vi “làm sai lệch di tích văn hóa” và không giữ nguyên hiện trạng của di tích; vi phạm điều 4 của Nghị định 98 với hành vi cụ thể: đưa thêm (hiện vật) như bàn ghế, quầy tính tiền, khu vực pha chế... "làm thay đổi yếu tố gốc cấu thành di tích" và “làm thay đổi môi trường cảnh quan của di tích”.

Trước dư luận của báo chí, Cục Di sản văn hóa thuộc Bộ VH-TT-DL đã yêu cầu Trung tâm BTDTCĐ Huế báo cáo giải trình về việc cho mở kinh doanh dịch vụ cà phê, giải khát ở di tích lầu Tứ phương vô sự.

B N L



VẤN ĐỀ TRUNG QUỐC ,ÔN HÒA NHƯNG KHÔNG NHÂN NHƯỢNG

Máy bay tuần thám Trung Quốc xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam để thu thập tin tức về tàu Bình Minh 02 ngày 21-5 - Ảnh: TS

Từ ngày 3 đến 5-6-2011, Hội nghị an ninh châu Á - Thái Bình Dương lần thứ 10 (Đối thoại Shangri-La 10) tại Singapore có nhiều quan điểm, chủ yếu tập trung vào ba nội dung chính:
+ Mặc dù không lên án hay ủng hộ cụ thể nước nào về vấn đề tranh chấp chủ quyền tại biển Đông, nhưng Mỹ và các nước khác trong khu vực tỏ thái độ quan ngại về những va chạm gần đây tại khu vực có thể gây ảnh hưởng đến quyền tự do đi lại của tàu bè quốc tế ở eo biển Malacca. Do đó vấn đề tranh chấp chủ quyền tại biển Đông là một vấn đề đa phương và phải được giải quyết hòa bình bằng đàm phán, hạn chế sử dụng vũ lực quân sự gây xung đột tại khu vực.

+ Diễn biến phức tạp trong tranh chấp biển Đông nhưng một số nước Đông Nam Á đã không trực diện phản đối Trung Quốc. Các diễn biến trên ngày càng cho thấy Tuyên bố chung về ứng xử của các bên ở biển Đông (DOC) gần như vô hiệu vì không có biện pháp chế tài đối với các nước đã tham gia ký kết.

+ Trung Quốc một mặt kêu gọi kiên trì đàm phán để giải quyết vấn đề tranh chấp, nhưng lại cố tình đưa những vụ việc xảy ra tại khu vực không có tranh chấp thành có tranh chấp (như vụ tàu Bình Minh 02 và Viking 2), tiến hành đàm phán song phương với các nước ASEAN nhằm thực hiện chiến lược chia để trị, bẻ gãy sự liên kết trong khối ASEAN rồi từ đó đi đến thỏa thuận song phương với từng nước theo giải pháp gác tranh chấp, cùng khai thác tại những khu vực chồng lấn có lợi cho Trung Quốc.

Thủ đoạn leo thang của Trung Quốc
Nhiều ý kiến đề nghị đưa vấn đề biển Đông ra Tòa án quốc tế. Tuy nhiên việc kiện ra tòa không hề đơn giản vì thẩm quyền xét xử của Tòa án quốc tế theo quy định được xác lập trên cơ sở đồng thuận của các bên tranh chấp. Như vậy, nếu phía Trung Quốc không đồng ý thì tòa án cũng không đủ cơ sở để xác lập quyền tài phán.

Vấn đề tranh chấp chủ quyền tại quần đảo Hoàng Sa là một vấn đề song phương giữa hai nước có yêu sách là Việt Nam và Trung Quốc. Vấn đề tranh chấp chủ quyền quần đảo Trường Sa là liên quan đến yêu sách của các nước Việt Nam, Philippines, Malaysia, Brunei, Trung Quốc do vậy cần đàm phán đa phương. Còn vấn đề chủ quyền trên biển Đông thì liên quan đến quyền lợi của cả những nước khác trên thế giới.

Để bảo vệ tối đa lợi ích của mình, Trung Quốc sử dụng nhiều thủ đoạn để làm phức tạp tình hình như cử tàu chiến và máy bay ra Bãi Cỏ Rong để răn đe Philippines. Trước đây Trung Quốc cũng đã đâm tàu và cắt cáp tàu Việt Nam rồi, nhưng khu vực xảy ra là ở vùng ngoài 200 hải lý hoặc vùng tranh chấp. Khi Việt Nam tiến hành khảo sát để lập hồ sơ báo cáo Liên Hiệp Quốc về ranh giới ngoài của thềm lục địa thì tàu khảo sát của Việt Nam cũng bị tàu Trung Quốc cắt cáp.

Sự kiện Bình Minh 02 cũng như phá cáp tàu Viking 2 là do tàu Trung Quốc dấn sâu hơn vào vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của Việt Nam. Đó cũng là lý do trước khi diễn đàn Shangri-La diễn ra thì dư luận nhận định đây là một động thái của Trung Quốc nhằm răn đe Việt Nam cùng các nước trong khu vực ASEAN và Mỹ, tỏ rõ lập trường của Trung Quốc là không bao giờ nhân nhượng và từ bỏ tấm bản đồ “đường lưỡi bò” vốn kiểm soát phần lớn diện tích biển Đông.

Trong bài phát biểu sáng 5-6 tại diễn đàn an ninh cấp cao Shangri-La, bộ trưởng quốc phòng Trung Quốc nhấn mạnh “chỉ bằng cách ủng hộ dân chủ trong quan hệ quốc tế và tôn trọng lợi ích cốt lõi, cũng như những mối quan tâm lớn của nhau” mới có thể khiến khu vực châu Á - Thái Bình Dương “thật sự tìm thấy hòa bình lâu dài, ổn định và hòa hợp”.

Tuy nhiên, xâu chuỗi hàng loạt vụ việc xảy ra từ tháng 3 tới nay trong vấn đề chủ quyền biển Đông, người ta đã không còn ngạc nhiên hay thắc mắc chuyện Trung Quốc nói vậy mà không phải vậy. Việc này đã được chứng minh một cách không thể chối cãi khi bộ trưởng quốc phòng Trung Quốc tuyên bố bằng lời hay chữ đẹp thì các tàu Trung Quốc lại phá hoại tàu Viking 2.

Vấn đề leo thang tranh chấp tại khu vực quần đảo Trường Sa có thể là một ngòi nổ cho xung đột tại khu vực, nếu có xảy ra thì thiệt hại trước hết cho các nước tham gia xung đột và ảnh hưởng đến tất cả những nước có lợi ích ở khu vực.

Nhưng không có nghĩa vì điều này mà Việt Nam phải nhân nhượng với Trung Quốc, bởi vì trong không gian phát triển của Trung Quốc, phía nam là hướng tương đối ổn định, khu vực ASEAN là cửa ngõ để Trung Quốc vươn ra xa hơn. Vậy liệu Trung Quốc có thể “cắt” cái cửa này được không, làm cho khu vực này có những quốc gia không bằng lòng với chính sách của Trung Quốc được không?

Những việc cần làm ngay
Giải pháp hòa bình trên biển Đông vẫn là mục tiêu Việt Nam theo đuổi, tuy nhiên hiện nay DOC chưa có chế tài nào để các nước cam kết thực thi thì việc ra đời Bộ quy tắc ứng xử biển Đông (COC) là việc làm cần thiết nhằm duy trì trật tự và hòa bình trên biển Đông. Cuộc họp cấp cao ASEAN vừa qua ở Jakarta (Indonesia) cũng đặt ra mục tiêu kêu gọi các bên sớm đạt được COC vào năm 2022 nhưng thời hạn này là quá lâu. Vì lẽ Trung Quốc liên tục quấy phá các vùng biển trong khu vực và họ sẽ đưa giàn khoan lớn đến khoan tại các vùng nước sâu ở biển Ðông vào tháng 7 năm nay.

Do đó giải pháp trước mắt của Việt Nam là:

(1) Kiên quyết trong việc khẳng định và bảo vệ chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ khi đàm phán với Trung Quốc và ASEAN, để có được sự ủng hộ cần thiết nhằm bảo vệ tối đa lợi ích của mình tại đây. Quốc hội cần nhanh chóng hoàn chỉnh và ban hành luật biển. Chuẩn bị sẵn sàng đối phó, chủ động trong mọi tình huống bất ngờ về xung đột vũ trang có thể xảy ra.

(2) Việt Nam cần gửi công hàm lên Liên Hiệp Quốc phản đối Trung Quốc xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế.

(3) Mời gọi và bảo vệ các công ty dầu khí nước ngoài, thí dụ như Mỹ, Anh, Nga, thăm dò và khai thác tài nguyên vùng đặc quyền kinh tế.

(4) Mặt khác, với chiến lược biển đến năm 2020 thì ngư dân Việt Nam cần vươn ra khơi xa với sự bảo vệ của lực lượng kiểm ngư (đã có đề án thành lập). Các tàu của ta trong vùng biển Ðông cần có đủ phương tiện ghi lại các hành động vi phạm, cản trở, uy hiếp... của tàu Trung Quốc làm bằng chứng và lập thành hồ sơ để công bố chứng cứ với quốc tế về các vi phạm những thỏa thuận song phương, đa phương và luật pháp quốc tế.

NGUYỄN TRỌNG BÌNH - LÊ VĨNH TRƯƠNG - PHẠM THU XUÂN
(Quỹ Nghiên cứu biển Đông)

TTO

TRUNG QUỐC LẠI PHÁ HOẠI CÁP TÀU THĂM DÒ CỦA VIỆT NAM


Tàu ngư chính 311 của Trung Quốc đã có mặt trong vùng biển chủ quyền Việt Nam để giải vây cho tàu cá 62226 sau khi phá rối cáp khảo sát của tàu Viking 2 - Ảnh: Xinhua

Chỉ nửa tháng sau vụ xâm nhập sâu vào vùng biển chủ quyền của VN, cắt cáp tàu thăm dò địa chấn Bình Minh 02, Trung Quốc (TQ) lại tiếp tục làm tình hình biển Đông gia tăng căng thẳng với việc cản phá hoạt động tàu thăm dò Viking II của VN sáng 9.6.

Đây là thông tin được bà Nguyễn Phương Nga, người phát ngôn Bộ Ngoại giao VN, cho biết tại cuộc họp báo thường kỳ của Bộ Ngoại giao chiều qua.
Đại diện Bộ Ngoại giao cho biết vào hồi 6 giờ sáng 9.6, trong khi tàu Viking II do Tập đoàn dầu khí quốc gia Việt Nam (PVN) thuê đang tiến hành thu nổ địa chấn 3D tại lô 136.03 (6 độ 47,5’ bắc, 109 độ 17,5’ đông) thuộc khu vực thềm lục địa của VN thì tàu TQ mang số hiệu 62226, được sự yểm trợ của 2 tàu ngư chính TQ mang số hiệu 311 và 303, chạy ngang qua mũi tàu Viking II, sau đó đổi hướng và gia tăng tốc độ. Mặc dù phía VN đã phát pháo hiệu cảnh cáo, nhưng tàu 62226 của TQ vẫn cố tình lao vào tuyến cáp khảo sát của tàu Viking II và bộ phận cắt cáp chuyên dụng của tàu 62226 đã mắc vào tuyến cáp của tàu Viking II, làm cho tàu Viking II không thể hoạt động bình thường. Ngay sau đó, hai tàu ngư chính 311 và 303 cùng vài tàu cá khác của TQ đã vào giải cứu cho tàu 62226.
Bà Nguyễn Phương Nga khẳng định khu vực thu nổ địa chấn nói trên của tàu Viking II nằm trong thềm lục địa 200 hải lý của VN, hoàn toàn thuộc chủ quyền của VN theo Công ước LHQ về Luật Biển 1982. “Hành động nói trên của các tàu cá và tàu ngư chính TQ là hoàn toàn có chủ ý, có tính toán và chuẩn bị kỹ lưỡng, đã vi phạm nghiêm trọng quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia của VN, vi phạm Công ước LHQ về Luật Biển năm 1982 và Tuyên bố về các ứng xử của các bên ở biển Đông (DOC), đi ngược lại nhận thức chung giữa lãnh đạo cấp cao hai nước về việc duy trì hòa bình ổn định tại biển Đông, gây thiệt hại nghiêm trọng kinh tế đối với Tập đoàn dầu khí quốc gia Việt Nam”, bà Nguyễn Phương Nga nói.

Trao đổi với PV Thanh Niên chiều 9.6, ông Đỗ Văn Hậu, Phó tổng giám đốc PVN, khẳng định: “Tập đoàn dầu khí quốc gia VN phản đối hành động cắt cáp tàu Viking II của các tàu TQ, khi Viking II đang tiến hành thăm dò tại khu vực thềm lục địa VN. Hành động của các tàu cá và tàu ngư chính TQ là có chủ ý, được tính toán và chuẩn bị kỹ lưỡng”.
Đáng chú ý là vụ việc trên xảy ra ngay sau vụ 3 tàu hải giám TQ cắt cáp tàu thăm dò địa chấn Bình Minh 02 của PVN tại lô 148, thuộc thềm lục địa VN hôm 26.5, làm cho tình hình biển Đông tiếp tục căng thẳng. Theo đại diện Bộ Ngoại giao, các hành động có tính hệ thống này của TQ là nhằm biến khu vực không có tranh chấp thành khu vực có tranh chấp, thực hiện mục tiêu biến yêu sách “đường 9 đoạn” (còn gọi là đường lưỡi bò) của TQ thành hiện thực. Đây là điều VN không thể chấp nhận.
Người phát ngôn Bộ Ngoại giao cho biết VN phản đối mạnh mẽ việc làm trên của phía TQ, yêu cầu phía TQ, xuất phát từ tầm cao chiến lược của quan hệ Việt - Trung, chấm dứt ngay và không để tái diễn hành động xâm phạm quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia của VN trong thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của VN, bồi thường thiệt hại đã gây ra cho PVN.
Chiều cùng ngày, đại diện Bộ Ngoại giao VN đã gặp đại diện Đại sứ quán TQ tại Hà Nội để phản đối hành động này của phía TQ và nêu rõ lập trường của VN.
MAI HÀ (TNO)