GIỮA BẦY ĐÀN - NGUYỄN NGỌC TƯ

Quán chị cheo leo trên sườn núi, cạnh lối đi lên động Tiên Sơn. Nhưng nhà chị xa ngoài bến thuyền, nơi du khách bắt đầu cuộc hành trình vào Phong Nha. Từ mờ sáng chị quá giang thuyền lên núi, tàn chiều quay về nhà. Hôm nào đông du khách, chị kiếm được chừng ba mươi ngàn, nhưng có ngày vắng người, khách ngại leo núi, chị về tay không.

Chị đẹp, và khuôn mặt phúc hậu hiền từ đến mức người trong đoàn tôi phải thốt lên, “thấy thương đến nỗi không nỡ chọc ghẹo”. Chị hay cười, lúc cười còn hiền hơn. Tôi than đói, chị chia một cái bánh mì nhỏ teo và giở nắp nồi mời tôi, trời ơi, mớ khoai luộc còn nghi ngút khói, củ khoai cũng nhỏ, ngọt lừ, chị nói khoai này không bán, ăn với chị cho vui, có vẻ như chị đã san sớt cho đám người mệt nhừ, đói khát chúng tôi ít thức ăn của buổi trưa rồi. Không biết cảm động vì điều đó, hay vì cái cười thuần khiết, vì giọng nói dịu dàng, vì sự thẹn thùng, sượng trân mỗi khi gã táo tợn nào gọi, “bán thêm chai nước, mình ơi”… mà tôi bỗng nghĩ, trời ơi, mình đã gặp được người đẹp nhất Quảng Bình. Lúc ra về, một anh bảo, hẹn mai mốt gặp. Chị cười, “biết còn quay lại nữa không mà hẹn?!!”. Nghe ngậm ngùi, nghe buồn buồn, như chúng tôi vừa lỡ lời.

Sau mỗi bậc thang, quán chị khuất dần. Tôi bỗng nghĩ về những con người cô đơn tôi đã gặp suốt dọc đường. Như chị, lũ lượt một ngày bao nhiêu là du khách lên ngọn núi này, ai là kẻ tri âm? Dừng chân một chút, uống ly nước, ăn quả trứng, mua món hàng lưu niệm, ai chia sẻ với chị những vui buồn? Ai lo lắng cho chị nếu bất ngờ chị lên cơn sốt vì sương lam chướng khí? Lũ lượt ngang qua chị biết bao người phải chăng là bao nhiêu sự trơ trọi, cô đơn?

Như người thu phí cầu Mỹ Thuận, chị nhân viên tiếp tân khách sạn, anh bảo vệ trong lăng Tự Đức… tôi luôn đọc được sự lạc lỏng đơn độc của họ với cuộc đời. Chúng tôi càng đông đúc, càng vui vẻ, càng phô trương và thoả mãn với những gì mình có càng đẩy họ ra xa mình. Đứng giữa dòng người, nhưng họ bị chìm khuất và quên lãng đi, vì chúng tôi tiếp xúc với họ chỉ bằng tấm lưng chứ không bằng khuôn mặt. Chúng tôi đi qua đi lại, cười cười nói nói, chọn những cảnh đẹp nhất để chụp tấm hình đem về khoe khoang, và chúng tôi đã bỏ họ lại phía sau, vì những bộ quần áo sang trọng lượt là, những món hàng lưu niệm xa xỉ. Vì sau đó, chúng tôi sẽ về nhà, sẽ quên lãng họ.

Họ thì vẫn ở đó, vật lộn với cuộc mưu sinh. Có lần, tôi tấm tắc khen với một người Quảng Bình, Phong Nha đẹp quá, đẹp nhất nước đó, chị à. Chị chèo thuyền cười, tui cũng không biết nữa, hồi nào giờ tui chỉ biết bến thuyền, với một khúc sông Son, có đi khỏi đây đâu mà biết chỗ nào đẹp hơn chỗ nào”. Tôi định khen lấy lòng, để xem người phụ nữ nghèo khó này hạnh phúc tự hào như thế nào, không ngờ… Mất ba mươi năm tôi mới tới Phong Nha, cứ nghĩ quá dài, cứ xấu hổ với bạn bè về sự ngơ ngác, quê mùa của mình, còn chị gần năm mươi rồi, thị xã Đồng Hới vẫn là một nơi xa xôi, lạ lẫm.

Và người phụ nữ này vẫn vài ba ngày lại đưa rước khách vào thế giới hang động nổi tiếng thế giới, ghi tên mình vào bộ tộc những người cô độc, cười nói với người đời mà thui thủi ở một bến bờ xa xôi, nơi có bảy đứa trẻ trong ngôi nhà nhỏ bên sông Son đang hau háu đợi thuyền mẹ về. Không phải ai cũng biết điều đó, người ta nhiều khi tưởng chỉ một mình lủi thủi nơi thâm sơn cùng cốc, xa làng xa chợ mới gọi là cô đơn.

Nhưng sống giữa bầy đàn đông đúc mà không ai hiểu được mình, không ai chia sẻ với mình, không ai trìu mến với mình, đâu thử lên núi cao xem có đỡ đau hơn không?

Che Mưa

Mây xuống thấp thật gần
Rơi những hạt nhẹ nhàng
Trong chiều mưa phố thị
Đếm từng hạt bay bay

Chiếc dù che đôi lứa
Anh khẻ hát tình hồng
Em tưạ vai thầm ước
Mong trời mưa thật lâu

Mây tan nhanh trời tạnh
Từng hạt nhỏ ngừng rơi
Ông mặt trời e ấp
Le lói chút vàng soi
 
Có chút nắng cuối ngày
Làm hồng thêm đôi má
Anh nhìn sâu trong mắt
Chiếc dù nghiêng khép vội ..

Ao Ước


Em ao ước khi bình minh ló dạng
Bàn tay anh nắm chặt lấy tay em
Cùng tiến bước vào ngày tươi rực rỡ
Biến cuộc đời là mái ấm thân yêu
   
Em ao ước khi trưa hè gay gắt
Ánh mắt anh là suối mát dịu dàng
Cho em lặn đắm trong tình ưu ái
Để ngày dài là chuổi mượt mà trôi
   
Em ao ước mỗi khi chiều tắt nắng
Bờ vai anh là chiếc võng ru hời
Cho em tựa dệt thêm tình say đắm
Để chiều tàn còn giọt nắng long lanh
   
Em ao ước mỗi đêm về gối mộng
Cánh tay anh làm chiếc gối êm đềm
Bờ môi anh lướt dài trên mi mỏi
Cho đêm về là giấc mộng thần tiên
   
Em ao ước nhiều hơn và hơn nữa
Tiếng anh đàn dạo khúc cuối cho em
Bước theo nhau vào cuối đời tận thế
Vẫn tô hồng như thuở chớm đan tay

Anh Đi Xa

 
Anh đi xa .. nắng tắt trên vai
Giọt buồn rưng rưng ướt đẩm mi gầy
Anh đi xa .. có gió trên cao
Từng hạt buông rơi .. mây phủ giăng sầu
   
Anh đi xa .. để trái tim côi
Còn lại trong em nổi nhớ đong đầy
Anh đi xa .. lá xót xa đưa
Cành vàng chơ vơ .. tóc xỏa mong chờ
 
Xa nhau rồi lệ nào héo hắt
Cơn mưa tràn không xóa niềm đau
Đôi tay gầy tìm trong tê tái
Dáng anh về .. chất ngất trong mơ
 
Anh đi xa .. bối rối đêm thâu
Mộng tàn canh khuya giấc ngủ không tròn
Anh đi xa .. giá buốt đôi môi
Ngày về trong em .. ôi tháng năm dài

Có Bao Giờ Anh Hiểu

 
Có bao giờ anh hiểu
Mùa Xuân không rực rỡ
Khi bóng anh khuất mờ
Còn lại em đơn côi
 
Có bao giờ anh biết
Mùa Hạ nắng ươm màu
Trên đôi môi em ngoan
Dù nụ hôn vội vã
 
Có bao giờ anh thấy
Mùa Thu lá úa nhàu
Khi chúng ta xa nhau
Không một lời từ giã
   
Có bao giờ anh hiểu
Mùa Đông không băng giá
Khi anh về bên em
Dệt thơ tình yêu thương

Còn Chút Dư Âm


Đêm mệt nhoài sương thở
Nghe từng mảnh hồn tan
Xuôi theo đời lãng đãng
Đếm vội ngày qua mau  

Đêm chợt tiếng ai vang
Về mang theo chút nắng
Sưởi vào ngày cô đọng
Tiếng cười vẫn còn vương 

Đêm thoáng nghe hồn mở
Nhẹ nhàng chốn thinh không
Mai sẽ ươm màu gió
Hơ mát chiều mênh mông
 
Đêm tạ ơn ngày rộng
Có còn chút dư âm
Đêm chớm đan chồi mộng
Cám ơn người xa xăm ..

Chút Sáng


Đêm buốt giá .. chùng .. thinh không lặng
Gió thở dài xào xạc lá rơi
Bên khung cửa mây trùm trăng nghẹn
Cánh sao tàn xẹt giữa trời đen 

Đường hun hút mưa buồn lất phất
Bóng em về lạc lỏng mông lung
Chợt anh thoảng ru đêm mộng mị
Cuối chân trời đốm lửa mong manh

Hình như có niềm vui nhè nhẹ
Ướm lên thơ rung khúc nhạc hồng
Từng ngón tay lướt trên phím ngọc
Dệt cung ngà dạo tiếng tơ vương

Em Đi Về


Em đi về nắng buồn không đứng đợi
Chỉ nàng mây dừng lại tiễn chân người
Cơn mưa bụi dường như niềm xao xuyến
Em đi về bỏ xót lại ngày phai

Em không mang màu áo ươm rực rỡ
Bởi vì thu đã che lấp hạ vàng
Có vương vấn cũng chỉ là ảo mộng
Phải không anh phù du một áng thơ

Em đi về góp nhặt lời đưa tiễn
Dấu trong mơ một chút vốn chiều tàn
Em đi về tình xa còn nặng trĩu
Gánh trong thơ hồng ấm một màu hoang

Gọi Trong Gió

Gọi anh trong gió chiều hoang phai nắng
Mưa về giăng mắt sầu dâng trên môi
Gọi anh trong gió thiên thu tình đợi
Gọi anh trong gió ôi xót xa cay
 
Gọi anh trong gió mây buồn đứng lặng
Nghe hồn chơi vơi về nơi xa ấy
Theo thời gian trôi nhớ thương đong đầy
Gọi anh trong gió, anh hỡi hay chăng

Anh về chốn đó có chung nổi buồn
Em còn nơi đây tháng năm võ vàng
Trăng mờ thổn thức gối đêm bẽ bàng
Từ anh xa vắng mộng tàn cuối thu

Gọi anh trong gió biển đêm ru sóng
Vỗ về hôn lên bờ xa cát trắng
Gọi anh trong gió theo ngàn con sóng
Hãy về bên em ru giấc tình say

Tiễn Cha Đi


Ngày con về nắng chợt tắt ngoài song
Mây vần vũ cả bầu trời u ám
Xác cha lạnh như hồn con băng tuyết
Con gục đầu giờ cha ở nơi đâu ?

Sao không đợi chờ con về phút cuối
Cầm tay cha nghe trăn trối đôi lời
Cho con trẻ còn vài lời an ủi
Chỉ một lần rồi vĩnh biệt ngàn thu ?

Cha ơi cha giờ âm dương cách biệt
Hai phương trời làm sao phụng thờ cha
Lòng con như biển hồ đang lay động
Cơ hồ như ngàn con sóng trào dâng

Tiễn cha đi một lần là vĩnh viễn
Là một lần không được thấy lại cha
Không còn được cha vỗ về vuốt tóc
Như thuở nào mẹ sớm bỏ con đi

Cha ơi cha có nghe lời con gọi
Ai sẽ dìu nâng bước ngã con đi
Hồn vật vã giờ cha nơi chín suối
Hết kiếp này làm sao gặp lại cha?


Viết cho Thụy Kim

BÀI ĐIẾU VĂN VIẾT MUỘN - NGUYỄN MIÊN THẢO


(Nhân ngày tuần chay giáp năm Ni sư Huỳnh Liên)

Chưa một lần sinh nở
Người
Mẹ Việt Nam
Chưa một lần trần tục
Mẹ
Bao năm
Sống giữa đời thường

Hôm nay
Chúng con về giỗ Mẹ
Gặp lại bạn bè
Thiếu vắng anh em

Vẫn như ngày nào
Con nghe
Gió phong trào
Lớp lớp tràn đi
Bão tố
Giữa đường phố xưa
Rộn ràng
Tiếng hát

Tuổi hai mươi
Cách mạng dậy thì

Ngày hội trùng tu
Mẹ
Nửa mừng
Nửa tủi

Bạn bè con
Những con của Mẹ
Đứa chết trong ngục tù
Đứa ngã xuống
Một đêm vượt lộ
Đứa bây giờ ăn - trên - ngồi - trước
Đứa sống lang thang không cửa không nhà
Mơ ước suốt đời
Một tờ hộ khẩu
Có đứa đã chết trong đời thực
Vẫn múa may
Quanh nỗi bần cùng

Hôm nay
Chúng con về
Với Mẹ
Ăn bữa cơm dưa muối
Lòng nghe đau buốt nỗi cần lao
Mà trái tim
Vẫn cháy bỏng
Lửa phong trào

Mẹ vẫn ngồi
Hiền từ trong mộ tháp
Mừng chúng con
Đang tràn tuổi thanh xuân
Mà nhớ những người
Vắng mặt

Chiều nay
Vườn chùa rụng đầy bông sứ trắng
Mừng chúng con về
Vườn cũ
Ngát hương bay .

Rằm tháng Hai năm Mậu Thìn (1987)

THƠ TÔN PHONG,,TRẦN DZẠ LỮ

SAU CUỘC CHIẾN
TÔN PHONG

Con về lạy mẹ bóng cây
Lạy cha ngọn cỏ lạy thầy bờ sông
Con cò lạy dọc cánh đồng
Con xin cúi lạy một vòng quê hương


MẸ ƠI
TRẦN DZẠ LỮ
Mẹ ơi mẹ giữa vòng đời nghiệt ngả
Nhiều khi con phải vượt lên chính mình
Trước mặt, sau lưng hố thẳm rập rình
Đường thiên lý cứ hỏi lòng hối hả ?

Bỏ quê quán để trở thành khách lạ
Mẹ đừng buồn con-một đứa phiêu linh
Bỏ dòng sông Hương một thuở tự tình
Ôm trôi nổi để gặm hoài đắng, chát…

Bao nhiêu năm con vẫn còn ngơ ngác
chốn thị thành, mai mốt sẽ về đâu ?
Ly rượu cạn, hồn đau, ai tri kỷ ?
Thèm lời ru của mẹ đến chiêm bao !

Ngôn ngữ kia như trái bóng nhiều màu
Người phủ dụ làm sao con tin được ?
Sống như đất, suốt một đời chân thật
Biết tìm đâu tình hương bưởi hương ngâu?

Nhớ như in lời mẹ dặn hôm nào:
(sống chí tình đó là điều tốt nhất )
Nhưng thị phi luôn lơ lửng trên đầu
Con chưng hửng…khi biết mình thất thế !

Bao nhiêu năm ,vẫn thèm về với mẹ
Dẫu lượng đời hao hụt cõi phù hoa
Có nơi đâu bằng được chốn quê nhà
Phải không mẹ?-Người con yêu quý nhất !

Lúc sinh con cũng là lúc mẹ mất
Một vầng trăng kỷ niệm đã vuông tròn
Mắt mẹ buồn như mắt của hoàng hôn
Cha khuất núi một ngày mưa lất phất !

Con cũng mất một tình yêu thứ nhất
Nơi Hoàng Thành ngày ấy đã xa xăm
Chiều Thiên An-Sao dấu ấn vẫn còn
Môi phụ bạc rời xa môi quay quắt ?

Mẹ ơi mẹ con vẫn tin rằng đất
Vẫn bao dung cho kẻ biết quay về
Cơm với cá vẫn ngot ngào tiếng hát
Lý mười thương viên mãn một tình quê …

T D L
( SàiGòn tháng 4 năm 2011 )





TRANG VĂN NGÀY CŨ KỲ 31 - NHÀ THƠ HẠC THÀNH HOA



Hạc Thành Hoa tên thật là: Nguyễn Đường Thai Sinh quán tại Xuân Phổ, Thọ Xuân, Thanh Hóa, sống bằng nghề dạy học, Hạc Thành Hoa làm thơ từ năm 1961, đã đăng thơ trên các tạp chí văn học trước năm 1975 tại Miền Nam Việt Nam.
Tác phẩm đã xuất bản:
+ Trong nỗi buồn vàng (Nguyễn Đình Vượng, tạp chí Văn Sài Gòn – XB – 1971).
+ Một mình như cánh lá (Giao điểm Sài Gòn xuất bản – 1973), tái bản (Thư ấn quán Hoa Kỳ xuất bản) 2006.
+ Phía sau một vầng trăng (NXB Thanh niên – Hà Nội – 1955).
+ Khói tóc (NXB Lao động – Hà Nội – 1996).
Xin được giới thiệu một số bài thơ cùa nhà thơ Hạc Thành Hoa

RỪNG LÚC NỬA ĐÊM
Nửa đêm trời đất mênh mông
Rừng hoang vu quá cho lòng xót xa
Cây buồn đêm cũng trổ hoa
Chim kêu dưới bóng trăng tà lẻ loi
Thương rừng không tiếng lá rơi
Thương ta trôi giạt một đời đắng cay
Đêm đêm thức giữa rừng cây
Nằm nghe sương rụng giọt đầy giọt rơi
Tưởng như đêm suốt một đời
Ngày mai không biết mặt trời có lên.

MƯA VANG MẶT ĐƯỜNG
Ngậm ngùi nhớ những ngày xưa
Phất phơ dạo dưới cơn mưa ngày nào
Mưa vang một giấc chiêm bao
Cây xanh lá biếc xôn xao với người
Mưa từng giọt rượu trên môi
Lòng ta theo nhịp đất trời cùng quay
Những ngày lạnh hút chân mây
Niềm vui bắt đuợc cơn say trong đời.
Ngọt lòng nghe tiếng mưa rơi
Giọt mưa thu cả đất trời vào trong...
Mưa như sương trắng cánh đồng
Tưởng còn tươi những nụ hồng trong mưa
Nụ hồng đã rụng năm xưa
Mùa bong bóng vỡ bây giờ còn đây
Trong hồn đã vắng cơn say
Mưa còn thơm những tháng ngày trổ bông
Đưa tay hứng giọt mưa nồng
Nghe thân buốt lạnh một dòng suối sâu
Mưa từng hạt nặng mưa mau
Sương ngân lối cũ lòng đau vô bờ.

TIẾC ĐỜI SAO BĂNG
Em còn bóng mát đầu sông
Nắng đi trải lụa nằm hong tơ chiều
Bụi mờ lạc nẻo chân xiêu
Hàng cây lượn khói tiêu điều chưa tan
Em còn tươi búp ngọc lan
Hương bay từ cõi thiên đàng nào xa
Kiếp trần trơ một hồn hoa
Thương mây trắng những ngày qua biển sầu
Em còn vầng nguyệt đêm thâu
Từ nao nao ánh hỏa châu cuối trời
Chim qua trăng sáng tuyệt vời
Chợt bâng khuâng tiếc thương đời sao băng

TRÊN BỜ ĐÁ TÌNH NGƯỜI
Chồi vui chưa trổ cành không
Mù mưa giăng một nhánh sông âm thầm
Tình người bờ đá trăm năm
Sóng tình tôi cuộn trên dòng nước xuôi
Hang sâu chim ngủ phần người
Trơ vơ cột khói thở trời mây đen
Nẻo đời mai có còn em
Nhìn cây rủ bóng hồn im nắng tà
Ngại mây gió đuổi phương xa
Trời xanh sợi khói giăng qua bãi nào
Những ngày gió đợi trên cao
Trong mưa phố vắng bước sầu ngựa ô
Xe nào mai ngọn gió đưa
Chim quên tiếng hót nghe thu xuống cành

NHƯ HAI SỢI KHÓI
Ngày đó có em và tôi
Như hai sợi khói giữa trời gặp nhau
Bất ngờ ngọn gió từ đâu
Tưởng hai sợi khói lìa nhau suốt đời
Bây giờ em lại cùng tôi
Vẫn hai sợi khói giữa trời gặp nhau
Biết còn gần được bao lâu
Chỉ lo cơn gió từ đâu vô tình


ĐÊM TRĂNG PHƠI ÁO
Ngày mai đã hết quần áo mặc
Một bộ diện gần cả tháng nay
Ta lười trời đất còn nể mặt
Thì sá gì đôi trận gió bay…

Nhưng đêm trăng sáng trăng huyền diệu
Gác trọ lòng không bóng mây vương
Bạn vừa đi khỏi trăng vừa tới
Đem áo quần ra giặt đỡ buồn.

Dưới bóng trăng mình ta một cõi
Đất trời im vắng giấc cô miên
Bên thau quần áo cao như núi
Nỗi buồn trong dạ cũng cao thêm.

Trăng soi từng chỗ cho ta giặt
Áo quần trắng toát một màu trăng
Vò từng chiếc áo nghe tim buốt
Lòng cũng sầu theo những nếp nhăn.

Ta ngồi nhìn bọt xà bông vỡ
Mỗi bọt tan theo một phiến trăng
Tiếng của đời ai đang nức nở
Giữa tiếng đêm thu mộng xế tàn.

Cố thức giặt cho xong quần áo
Ngậm ngùi vắt những ánh trăng trong
Trăng theo nước chảy về vô tận
Từng giọt trăng dư rụng xuống lòng.

Đêm nay phơi áo trên sân thượng
Phơi cả đời ta giữa quạnh hiu
Phơi cả hồn ta trong sương lạnh
Một trời trong vắt bóng trăng treo.

CAO HUY KHANH - VN HỒ SƠ HẬU CHIẾN 1975-2011(KÌ 68)




NHỮNG SỐ PHẬN KỲ LẠ


Tưởng niệm
681 - Nguyễn Đức Quang
MỘT THỜI DU CA
Ca sĩ Việt kiều Mỹ sinh 1944 tại Sơn Tây – Mất tháng 3.2011 ở Mỹ (68 tuổi).
Xuất thân từ Hướng đạo, sau khi tốt nghiệp đại học ở Đà Lạt từ năm 1966 phát động phong trào du ca từ Sài Gòn do mình chủ động vừa sáng tác vừa đi trình diễn khắp nhiều tỉnh thành miền Nam. Với mục đích, nội dung chủ yếu kêu gọi gây dựng tinh thần cống hiến cho xã hội trong lớp thanh niên giàu nhiệt huyết đóng góp xây dựng quê hương đất nước. Gần giống như tinh thần Hướng đạo xả thân vì cộng đồng.

Từ đó để lại một dấu ấn trong thế hệ trẻ thành thị qua nhiều ca khúc cổ vũ ý hướng xây dựng tích cực như “Việt Nam quê hương ngạo nghễ”, “Xin chọn nơi này làm quê hương”, “Về với mẹ cha”, “Bên kia sông”, “Về miền gian nan”, “Dưới ánh mặt trời”, “Hy vọng đã vươn lên”, “Chiều qua Tuy Hòa”… Bên cạnh đó còn thêm thể loại trầm ca, hưng ca. Tất cả đều mang tính phi chính trị không ngã về bên nào trong cuộc chiến VN lúc đó vẫn đang tiếp diễn ngày càng khốc liệt.

Sau 75 tất nhiên loại nhạc “chung chung” đó - không tỏ rõ quan điểm lập trường, không “phân biệt bạn thù” - bị chế độ mới cộng sản thẳng tay loại bỏ (cũng như cấm phong trào Hướng đạo hoạt động). Riêng bản thân tác giả cũng bị đi cải tạo ngắn hạn.

Ra trại, đến năm 1979 không còn con đường nào khác ngoài vượt biên qua Mỹ.

Tuy nhiên trên đất Mỹ lại có vẻ từ bỏ lý tưởng du ca trước kia có lẽ vì thất vọng thấy ý hướng phi chính trị ở đây rõ ràng thực tế vô hiệu quả – cũng như phong trào Hướng đạo nói chung - trong một xã hội, đất nước bị bủa vây, chi phối, chỉ đạo bởi chính trị nặng nề. Từ đó chuyển qua làm báo chuyên nghiệp – và cả đài phát thanh, truyền hình - ít ra cũng có tác động xã hội thực tế, hiệu quả hơn. Cùøng tham gia tổ chức, lãnh đạo báo Người Việt – cùng bạn cũ Đỗ Ngọc Yến – tờ nhật báo tiếng Việt lớn nhấùt ở hải ngoại, lập một vài tuần báo khác...

Đến năm 2004 nghỉ làm báo mới quay lại với giấùc mộng du ca trước đây, ôm đàn đi “hát rong” qua nhiều nước vẫn với ý nguyện yêu nước trong sáng ngày nào.

Sau khi mất đã được phong trào Hướng đạo VN truy tặng huân chương, còn để lại bài tráng ca Hướng đạo “Gươm thiêng ngạo nghễ”.

682 - Cao Văn Khánh
TƯỚNG DÍNH CHẤT ĐỘC DA CAM
Trung tướng Quân đội Nhân dân VN sinh 1917 tại Huế – Mất 1980 ở Hà Nội (63 tuổi).
Từng tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ.
Từ năm 1964 được cử vào chỉ huy nhiều đơn vị, mặt trận ở Trị – Thiên, Hạ Lào, Tây Nguyên. Có mặt trong những trận đánh lớn nổi tiếng Khe Sanh, đường 9 Nam Lào…

Năm 1974 được rút về Hà Nội làm Phó Tổng tham mưu trưởng, góp phần tham mưu chiến dịch giải phóng hoàn toàn miền Nam.

Năm 1980 qua đời vì bệnh ung thư được xác định là do di chứng CĐDC từng bị lây nhiễm trong thời gian sống và chiến đấu ở Thừa Thiên – Huế.

Theo nguyện vọng, mộ được chôn trên núi – thay vì tiêu chuẩn đưa vào Nghĩa trang Mai Dịch - gần mộ con trai đầu cũng bộ đội đã hy sinh, trên mộ chỉ đề tên không kèm chức tước gì hết.

Nhưng hậu quả chiến tranh để lại chưa hết, năm 2003 con trai út (4 con tất cả) mới hơn 30 tuổi mất cũng từ CĐDC phát tán từ cha.

Từ đó vợ là một đại tá giáo sư bác sĩ – cũng là cựu chiến binh Điện Biên Phủ người đồng hương – bắt đầu công trình nghiên cứu về CĐDC, trở thành một trong những người đi tiên phong đấu tranh đòi quyền lợi cho nạn nhân CĐDC Việït Nam.

683 - Chế Linh
“VUA NHẠC SẾN” KHÔNG QUÊN NGUỒN CỘI
Ca sĩ tên thật Chà Len (dân tộc Chăm) sinh 1942 tại Phan Rang. Sống ở Canada (2011).
Trước 75 là giọng ca nam nằm trong Top 4 nhạc vàng (cùng Hùng Cường, Duy Khánh, Nhật Trường), được Duy khánh dìu dắt trở nên còn ăn khách hơn cả thầy với biệt danh là “Vua bolero” qua những ca khúc “rên rỉ ủy mị” số 1 như “Con đường xưa em đi”, Thành phố buồn”…

Nhưng cũng chính vì giọng ca “não tình” đó khi hát nhạc lính mà năm 1972 từng bị chế độ Thiệu – Kỳ cấm trình diễn với lý do “làm nản lòng chiến sĩ” đánh cộng sản.

Sau 75 nhạc vàng lại bị cấm tiếp cấm tiệt khiến phải tìm đường vượt biên năm 1976. Không may bị bắt ở Phan Thiết chụp cho thêm cái mũ “phản động” nhốt biệt giam 28 tháng.

Đến 1980 mới vượt biên thành công qua đảo Malaysia rồi được Canada cho nhập cảnh.

Tại đây trở lại hát sô hải ngoại hoành tráng tìm lại một chút thời vàng son đã mất. Đồng thời lập phòng thu sống thoải mái (lần lượt lấy 4 vợ, có 14 con).

Năm 2007 chấp nhận lời mời theo đoàn UNESCO về VN trình diễn nhân lễ hội người Chăm tại TPHCM. Qua năm sau lại về biểu diễn ngay Thủ đô Hà Nội dịp Tết rồi ghé qua quê cũ thăm bà con xóm giềng.

Và còn tham gia một số hoạt động văn nghệ gây quỹ từ thiện ở VN với tâm sự giờ đã có thể lật bài ngữa được rồi: “Quá khứ chìm sâu rồi… Ở đâu thì tôi vẫn là Chế Linh, người dân tộc Chăm và quê hương là VN. Trái tim tôi vẫn nằm ở VN.”

684 - Dương Văn Minh
NGƯỜI KẾT THÚC CHIẾN TRANH
Tổng thống chế độ cũ sinh 1916 tại Mỹ Tho – Mất 2001 ở Mỹ (86 tuổi).
Vị tổng thống cuối cùng – đại tướng -- của chế độ cũ VNCH, nắm chính quyền chỉ 3 ngày rồi ra lệnh “hạ vũ khí” bàn giao chính quyền cho cộng sản.

Sau đó bị quản thúc tại TPHCM, đến 1983 mới cho phép qua Pháp đoàn tụ gia đình (có 2 con trai ở đó). Em trai là đại tá cộng sản (có 2 con gái để lại Sài Gòn nhờ anh chăm sóc) có được phép qua thăm.

Sau đó chuyển qua Mỹ sống với con gái. Có nguyện vọng được về thăm quê hương song chưa thực hiện thì qua đời vì bệnh già.

Suốt quảng đời còn lại rút về sống ẩn dật, ít tiếp xúc với bên ngoài, tránh trả lời phỏng vấn cũng không viết hồi ký để lại. Chỉ có vài lời nhắn nhủ con cái: “Mình có làm gì đi đâu cũng phải nghĩ đến dân tộc là trên hết, phải trở về với dân tộc.”

Đám tang có khoảng 500 người dự kể cả tướng tá đồng đội cũ lẫn chính trị gia thời trước dù bản thân nằm giữa dòng xoáy 2 luồng dư luận đối nghịch nhau -- một bên ca ngợi công lao “Tổng thống đầu hàng” vãn hồi hòa bình cho đất nước và một bên kết án phản bội “bán nước” cho cộng sản!

Nhớ lời cha, con cái đã có dịp trở về “dinh Hoa lan” tại TPHCM - vẫn được giữ lại cho gia đình - để tham gia hoạt động từ thiện.

585 - David Dương
TỪ COGIDO ĐỒNG NAI ĐẾN COGIDO MỸ
Doanh nhân Việt kiều Mỹ tên đầy đủ Dương David Trung sinh 1958 tại Sài Gòn. Sống ở Mỹ (2011).
Trước 75 gia đình chuyên ngành kinh doanh giấy – vừa thu gom giấy vụn vừa sản xuất giấy trắng – nổi tiếng lớn nhất miền Nam với thương hiệu COGIDO Đồng Nai.

Sau 75 đương nhiên bị đánh tư sản tơi bời buộc cả nhà phải vượt biên năm 1976, qua đảo đến 1979 mới được nhập cảnh vào Mỹ.

Trên đất Mỹ ngày đi làm việc chân tay, đêm tranh thủ đi học tiếng Anh.

Bắt đầu từ đầu những năm 1980, gia đình quay lại nghề “gia truyền” thu gom giấy vụn rất thành công do nghề này thời đó chưa có ở Mỹ. Tiến lên thành lập công ty lấy tên Cty COGIDO Paper – do mình làm giám đốc - nhằm nhớ lại thời vàng son ở VN. Từ thu gom giấy vụn phát triển thành thu gom phế liệu với một mạng lưới xe tải đi “nhặt rác” và nhiều công ty con qua đó giúp nhiều dân đồng hương di tản có công ăn việc làm ổn định khấm khá.

Năm 1992 tách ra lập công ty riêng tiếp tục khai thác mở rộng thu gom cả chất thải rắn, đưa dây chuyền công nghệ hiện đại vào áp dụng. Được bầu làm Chủ tịch Hiệp hội doanh nhân Việt kiều tại Mỹ.

Năm 2004 trở về thăm quê nhà nay là TPHCM, từ đó hợp tác đầu tư 400 triệu USD xây dựng khu xử lý rác thải Đa Phước lớn nhất nước mỗi ngày xửû lý 3.000 tấn rác thải. Song song đó nhiệt tình tham gia công tác từ thiện giúp đỡ đồng bào nghèo, bất hạnh, trẻ em khuyết tật… Ngoài ra còn vận động thành lập 2 trường đại học chi nhánh Mỹ tại VN.

Từ đó năm 2010, người được mệnh danh “Vua rác” được Tổng thống Mỹ B. Obama bổ nhiệm chức danh cao quý làm người phụ trách Quỹ học bổng Giáo dục VN (VEF) trong thành phần ban quản trị 13 người gồm các nghị sĩ, dân biểu lẫn nhân viên chính quyền Mỹ.

Quỹ này do cựu Tổng thống B. Clinton và Quốc hội Mỹ thành lập bắt đầu hoạt động năm 2003 với ngân sách 5 triệu USD/năm, đến năm 2011 đã cấp học bổng cho hơn 340 ứng viên VN – sinh viên và học giả – qua Mỹ du học hoặc nghiên cứu các ngành khoa học kỹ thuật, công nghệ, toán học, y tế.

686 - Đinh Huy Cài
“QUỸ BÁC CÀI”
Cựu chiến binh sinh khoảng 1938 tại Ninh Bình. Sống ở TPHCM (2011).
Đại tá về hưu sau cuộc đời trận mạc kinh qua từ đánh Pháp đến chiến trường miền Nam, sau đó còn 10 năm truy quét tàn quân Pol Pot ở Campuchia.

Về hưu sống một mình thanh bần (vợ con còn ở quê), được cấp nhà không nhận, đến khi vợ đưa con vào TPHCM học đại học mới chịu nhận một căn nhà nhỏ (còn một con bị di chứng CĐDC).

Bắt đầu từ năm 2001 đem hết tiền bạc dành dụm được khoảng 170 triệu đồng ra làm từ thiện, 70 triệu góp quỹ xóa đói giảm nghèo, còn 100 triệu để cho đồng đội cũ gặp cảnh khó khăn mượn bao giờ trả cũng được. Từ đó mới có tên gọi “Quỹ bác Cài”.

Để giúp quỹ trụ vững, chia bớt nhà đem cho thuê lấy thêm chút tiền đỡ đần trong gia đình. Phần mình chỉ còn lại “tài sản vô giá” là chiếc võng đong đưa từ ngày nằm rừng lội suối đánh giặc: “Người ta chỉ cần một chiếc võng là thu xếp cuộc đời của mình được rồi. Giường êm nệm ấm sao được khi bao đồng đội còn quá vất vả trong cuộc sống…”

687 - Giao Linh
“NỮ HOÀNG SẦU MUỘN” BÁN PHỞ
Ca sĩ tên thật Đỗ Thị Sinh sinh 1949 tại Sài Gòn. Sống ở TPHCM (2011).
Trước 75 được nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông đào tạo, nổi tiếng là “Nữ hoàng sầu muộn” trong làng ca nhạc miền Nam qua nhữõng ca khúc tình cảm thê thiết, được nhớ tới nhiều nhất là bài “Nỗi buồn hoa phượng”.

Đến năm 1982 mới vượt biên qua Mỹ. Trở lại nghề hát, nhiều lần đi biểu diễn nước ngoài ở Châu Aâu.

Năm 2001 lần đầu tiên quay về VN thăm bà con bạn bè, thấy không khí đã thoáng, cởi mở hơn nên năm 2003 quyết định về định cư luôn vì “Hoài hương là tình cảm tiềm tàng trong suy nghĩ mỗi người. Chỉ có điều ở từng hoàn cảnh nhất định chúng ta mới nhận ra thôi.”

Mở tiệm phở và bánh cuốn hãnh diện là “nghề gia truyền” và thỉnh thoảng vẫn dành thời gian đi tham gia hát từ thiện.

688 - Hà Thúc Cần
MỘT THỜI “ĐẤT KHỔ”
Nhà quay phim và sưu tập tranh sinh tại Huế – Mất 2004 ở Singapore.
Trước 75 quay phim cho Hãng CBS của Mỹ, có nhiều cơ hội chứng kiến thảm cảnh chiến tranh VN trên quê hương và số phận đồng bào mình.

Từ đó năm 1970 tự mình làm đạo diễn thực hiện bộ phim truyện nhựa (đen trắng) tựa đề “Đất khổ” với nội dung mô phỏng theo trận chiến Mậu Thân 68 trên quê nhà Huế của mình, lấy cảm hứng theo 2 thiên truyện của nhà văn đồng hương Nhã Ca, “Đêm nghe tiếng đại bác” và “Giải khăn số cho Huế”. Tham gia đóng phim cũng là đồng hương Trịnh Công Sơn (vai chính) lúc đó mới 20 tuổi chưa nổi tiếng cùng một số thân hữu văn nhân thi sĩ như Kim Cương, Lê Trọng Nguyễn, Sơn Nam, Kiên Giang, Miên ĐứcThắng…

Nhưng phim làm xong 1973 bị chế độ cũ cấm chiếu với lý do có tính chất “phản chiến” và “thân Cộng” nên ít ai biết tới.

Dù bị “chụp mũ” như vậy song sau 75 lại không sống nổi với cộng sản nên phải bỏ đi lưu vong Singapore.

Tại đây chuyển nghề trở thành nhà sưu tập tranh VN có tiếng, người đầu tiên mang tranh VN ra thị trường quốc tế bán đấu giá ở Hong Kong, Singapore. Từ 1985 đã trở về quê hương tìm tranh VN.

Mất vì bệnh thận dù đã thay cả 2 quả thận.

Riêng phim “Đất khổ” mãi đến năm 1996 mới được “phát hiện” lại ở Mỹ, trình chiếu và ra đĩa DVD. Năm 2008 được trích chiếu tại TPHCM nhân kỷ niệm ngày mất trịnh Công Sơn.


689 - Hoàng Cơ Minh
ẢO TƯỞNG “ĐÔNG TIẾN”
Phó đề đốc hải quân VNCH sinh 1935 tại Hà Nội – Mất 1987 ở biên giới Việt – Lào (53 tuổi).
Trước 75 giữ chức vụ tư lệnh vùng 2 duyên hải chế độ cũ, có tiếng là “tướng sạch” không tham nhũng tràn lan như thời đó.

Trong biến cố 30.4.75 lên tàu đào thoát qua đảo Guam rồi đếùn Mỹ.

Tại đây đứng ra phát động, thành lập một số tổ chức chống Cộng (có tiền thân của đảng Việt Tân hiệân nay) với chủ trương đưa quân về “tái chiếm” miền Nam. Từ đó năm 1981 qua vùng biên giới Thái lan – Lào lập căn cứ chiêu mộ binh lính (lấy từ các trại tị nạn tập trung dân VN vượt biên qua Thái chờ bảo lãnh đi nước ngoài), lập đài phát thanh, ra báo “kháng chiến”…

Từ 1985 bắt đầu tổ chức các đợt đưa quân từ biên giới Lào âm mưu đột nhập biên giới VN tiến hành các chiến dịch mệnh danh “Đông tiến” nhằm đánh phá VN. Nhưng với lực lượng chỉ gồm 4 đơn vị mệnh danh là “quyết đoàn” tổng cộng khoảng 200 người, lực bất tòng tâm lại thân cô thế cô nên tất cả đều nhanh chóng bị quân đội Việt - Lào bao vây tiêu diệt.

Năm 1987 đích thân chỉ huy cuộc “Đông tiến 3” bị chặn đánh thất thủ trong rừng sâu hết đường tháo lui, bị thương đành rút súng tự sát tại chỗ. Còn lại tàn quân bị bắt 18 người đưa ra tòa cuối năm lãnh án tù (năm 1991 được thả trục xuất về Mỹ).

690 - Hoàng Hải Thủy
NỖI HẬN 2 LẦN “NGÀY OAN TRÁI”
Nhà báo tên thật Dương Trọng Hải sinh 1933 tại Hà Đông. Sống ở Mỹ (2011).
Thủa nhỏ ở Bắc từng làm liên lạc viên cho bộ đội thời đánh Pháp, sau đó bỏ kháng chiến về thành rồi di cư vào Nam. Nỗi thất vọng với cách mạng từ đó ám ảnh trở thành một mối hận thù tận xương tủy kéo dài đến cuối đời, kể cả khi còn ở trong nước lẫn ra nước ngoài – một trường hợp điển hình của lớp người từng tham gia kháng chiến chống Pháp nhưng không chấp nhận cộng sản nên ly khai 2 lần di cư quay lại chống Cộng tới cùng.

Tại Sài Gòn sau 1954 là nhà báo chuyên nghiệp viết phóng sự xã hội mang chất biếm trên báo chí, đặc biệt là cây bút đầu tiên chuyên phóng tác tiểu thuyết nước ngoài thành công -- không phải dịch thuần túy mà “Việt Nam hóa” tác phẩm nướùc ngoài, cả truyện tình lẫn truyện trinh thám, hình sự – đăng báo ngày ăn khách, nổi tiếng nhất là cuốn “Kiều Giang” viết lại nguyên bản “Jane Eyre” của nhà văn nữ Anh Charlotte Bronte. Là một cây bút rất có nghề lại có tài năng đa dạng vừa có thể viết theo 2 phong cách lãng mạn trữ tình và hài hước nhẹ nhàng lẫn châm biếm sâu cay. Tất cả đều nặng tính giải trí “thị trường” hơn nghệ thuật.

Ngày 30.4.75 cả 2 vợ chồng đều làm cho cơ quan viện trợ văn hóa Mỹ “chạy không kịp” bị rớt lại. Không bị đi cải tạo song vẫn viết tin bài chống chế độ mới tìm cách gửi ra nước ngoài nên bị chế độ cộng sản đưa vào danh sách 10 “biệt kích cầm bút” chống Cộng (còn Hồ Hữu Tường, Nguyễn Mạnh Côn, Võ Phiến, Doãn Quốc Sỹ, Duyên Anh, Nhã Ca…), bị bắt giam năm 1977. Ở tù 24 tháng đến đầu năm 1980 mới thả ra.

Năm 1984 bị bắt giam lần thứ hai cũng vì lý do tương tự, đến 1988 mới đưa ra tòa kết án 8 năm tù. Sau đó được tổ chức Aân xá quốc tế can thiệp nên giảm án xuống còn 6 năm tù rồi đầu 1990 giảm nữa trả tự do.

Lần này về nhà cố tránh viết lách kiểu dễ mang họa vào thân, thay vào đó nhận dịch một số tiểu thuyết Mỹ để có tiền đắp đổi sống qua ngày (tất nhiên ký bút danh khác).

Chờ đến năm 1995 được bảo lãnh qua Mỹ.

Thoát cũi sổ lồng càng viết sung sức đủ thể loại cho nhiều báo đài và trên mạng, tất cả đều chĩa mũi dùi vào “tố Cộng” kịch liệt qua một loạt tác phẩm in ở Canada và Mỹ gồm “Tiếng kêu của máu” 1996, “Mang xuống tuyền đài” 1997, “Những tên biệt kích cầm bút” (hồi ký chính trị 1999)… Tất cả đều vọng lên tiếng than căm hận bi ai chung quanh “Ngày Oan trái” 30.4.75 – phổ biến hơn ở hải ngoại gọi là “Ngày Quốc hận” -- không bao giờ quên được.

Đáng chú ý từ thời nằm tù đã quay về với thơ, làm thơ trong tù sau này in thành tập “Tại ngục vịnh Kiều” 1995. Còn dịch cả thơ chữ Hán Nguyễn Du, thơ Mỹ, thơ Anh. Có lẽ chỉ ở đây – cùng với tuổi già - mới thấy le lói đôi chút tình cảm nhẹ nhàng khác với giọng điệu mỉa mai cay độc quen thuộc: “Dân tộc VN đau khổ trong gần trọn thế kỷ 20 rồi. Thế kỷ 21 đến, chúng ta mong ta được hưởng một thời để yêu thương…”

(Còn tiếp)

ĐÊM MƯA ĐỌC LÁ CỎ CỦA WHITMAN - PHẠM CHU SA

Cám ơn những câu thơ của thi sĩ Whitman
Tôi chợt sáng một đêm đen ngu muội
Tôi ngợi ca tôi một vì sao tối
Như em gọi tôi “gã hư hỏng đáng yêu”

Có gì đâu như đá phủ rong rêu
Tôi cúi xuống vực đời tôi đứng dậy
Khi chợt nhận ra một lũ người chán ngấy
Thấy đẹp tuyệt vời một ngọn cỏ chong chong

Những lá cỏ mong manh của thi sĩ Whitman
Tồn tại lâu hơn mấy mươi đời tổng thống
Lá cỏ - tình yêu - bài thơ cuộc sống
Đẹp như nụ - cười - bốn - mặt Angkor!

Tạ lỗi em ngày hồi hộp đêm âu lo
Tôi mải miết những cuộc vui phù phiếm
Tôi ngu dại cứ loanh quanh tìm kiếm
Chút hư danh với cạm bẫy giăng đầy…

Bình minh lên những lá cỏ sương rây
Những giọt lệ của tình yêu - sự thật
Xin tặng em nửa vầng trăng thứ nhất
Thổi tan đi chút hạnh phúc tật nguyền.

*

Walt Whitman (1819 - 1892 ) là nhà thơ,nhà báo,nhà nhân văn,nhà cải cách thơ Mỹ,tập thơ Lá Cỏ của ông nổi tiếng thế giới

BÌM BỊP KÊU THƯƠNG - NGUYỄN THỊ ÁNH HUỲNH



ai bịp mày chim ơi
mà bìm bịp suốt đời
hay sông Vàm Cỏ bỏ mày
đi lấy vợ
hay Đồng Tháp Mười bỏ mày
đi lấy chồng
bìm bịp
tiếng chim kêu
làm góa cả buổi chiều

cho chị ngủ nốt đêm Cần Đước
kêu thương chi cho đau lòng nhau
bật máu cây trạng nguyên
đốt cháy tán bàng

cứ bíp bịp hoài
chị không về Sài Gòn đặng
sợ chồng ghen
có ai lại lấy tiếng chim bìm bịp làm chồng ?

thôi chị phải bỏ đi
không dám ngủ trọn một đêm với tiếng kêu thương
tiếng chim có bùa ngải

bìm bịp bìm bịp…
tiếng kêu vò xé cả trời
nghe chim
có thể chết người
như không !

NTAH

CÀ MAU - VŨ TRỌNG QUANG



Mũi Cleopatra nữ hoàng ví dụ ngắn hơn một chút
tình thế thế tình đổi khác
mũi Cà Mau biểu tượng hiện thực nguy cơ mòn
Đất Mũi đuổi mất đuôi bồi
( ông hoàng thơ tình ơi khỉ khọt điệu đà vần
tổ quốc vừa con tàu ơi vừa mũi thuyền ta đó ) *

Cây mắm khẳng định mặn mà đi trước
cây đước mất chủ quyền lẽo đẽo phía sau
em đành lòng bỏ đi cho đặng tui thất bại ôm nặng chữ ngu
bên kia sớm tự sạt lở bên này không bồi mười thu
đôi guốc cao bồng con người khác quên lời thề hóa đá
biển gặm chân em và em vẫy đạp lòng biển
nhấn chìm mê muội bờ kè
sóng vỗ thòi lòi trơn tuột phù sa
cây súng nhựa bằng bằng cây bông súng giật mình du lịch
triều cường xâm lược triều đình xâm thực
nhấn chìm cơ hội bờ kè
khẳng khiu cọc bê tông cô độc Bạch Đằng

V T Q

(*) Nguyên văn thơ Xuân Diệu:
Tổ quốc ta như một con tàu
Mũi thuyền ta đó Mũi Cà Mau

BÀI CA TRONG BUỔI SỚM MAI - ĐỨC PHỔ



đêm qua như chuyện tình cờ
người xuôi con nước đến bờ tịch liêu
đã hoài đi quạnh về hiu
thảm thay con nước một chiều cuối đông

đêm qua biển chảy về sông
nằm nghe tóc rụng mông lung là buồn
một lời lở đã hàm oan
sẩy tay hỏng cả trăm ngàn ước mơ

đêm qua trăng vội vào thơ
nằm nghe gió thổi lửng lơ trên đầu
lòng buồn chẳng biết về đâu
trong đêm tình ái cho nhau cuộc đời

đêm qua sao rụng trên trời
nhở tay ta nhặt cuộc đời của ai
bây giờ thì cả tương lai
trong đôi mắt ấy ban mai cũng buồn

Khởi Hành 26.3.1970

Vọng Thơ


Vàng sân lá rụng chờ ai đó
Bước nhẹ qua thềm vọng tiếng thơ
Hàng mi khép mộng hờ xa vắng
Có phải anh về ve vuốt đêm ?

Vàng Rơi



Một ngày trôi lặng lẽ
Còn chút nắng bên đời
Vướng trên giòng nghiệt ngã
Nghe giọt sầu chơi vơi
 
Vàng đã phai sắc thắm
Lá rời cành ngu ngơ
Thu đi gieo ảm đạm
Bóng tàn theo áng mây

Đông len vào ký ức
Cho hồn đêm buốt giá
Tìm một cánh sao rơi
Lịm tắt cuối chân trời

Đêm ùa sâu trong mắt
Sương giăng mờ trên mi
Cung đàn im lặng tiếng
Chỉ còn lại thinh không

Ta cuộn mình trong góc
Vỡ từng phiến da khô
Bờ môi thôi mộng mị
Đếm thời gian phôi pha

Về lại Huế


Ngày em về .. Huế có nắng xôn xao
Rơi trên tóc làm hồng thêm đôi má
Ngày em về .. Huế cũng vẫn như xưa
Hàng phượng vỹ âm thầm bên lối cũ ?

Ngày em về .. Huế có nhớ ai mong
Trông ngơ ngẩn .. chiều vương trên áo tím ?
Cầu Tràng Tiền nghiêng mình soi bóng nước
Sông Hương buồn lờ lửng tiếng đò đưa

Có còn không giọng hò bên mái đẩy
Dáng lụa là .. thờ thẩn bước chân anh
Có còn chăng tóc thề buông hờ hửng
Đêm ru hời .. len nhẹ .. thóang sầu vương ?
 
Em đã về .. Huế nghe ngày dậy sóng
Cơn mưa phùn len lén ướp gót son
Hương trà thỏang .. sen bên hồ lay động
Thiên Mụ chiều chuông ngân vọng ngày thơ ..

NGƯỜI ĐÀN BÀ ĐI NHẶT MẶT TRỜI - NGUYỄN VĂN ĐÔNG

Nguyễn Văn Đông ,một nhạc sĩ tài hoa dù sáng tác không nhiều nhưng tác phẩm của ông đã để lại trong lòng người yêu nhạc thuộc thế hệ 40 - 60 thế kỷ trước những dấu ấn khó phai.Chiều Mưa Biên Giới,Nhớ Một Chiều Xuân,Phiên Gác Đầu Xuân...là một số trong nhiều tác phẩm vượt thời gian.Ca từ bài hát Người Đàn Bà Đi Nhặt Mặt Trời như là một bài thơ với ngôn ngữ và ý tưởng mới lạ dù tác phẩm đã xuất hiện cách đây hơn nửa thế kỷ...

Người đàn bà đi nhặt mặt Trời
Trên đống bỏ hoang của loài người
Màn đêm che lối
Tưởng rằng nắng tươi
Sương đọng trên lá
Ngỡ giọt nắng rơi
Quên hết vì đâu
Đời mình nên tội

Người đàn bà đi nhặt cuộc tình
Không nhớ người quen bỏ mặc mình
Tuổi xanh khát nắng
Giữa đời cháy da
Đưa mặt lên khóc
Thương tình xót xa
Hay khóc người xưa
Lệ nào cho vươn

Người đàn bà đi nhặt đời mình
Trên đống bỏ hoang đầy tội tình
Cỏ cây như đưa
Mơ hồ biết đâu
Con đường đêm vắng
Côn trùng ruỗi nhau
Chia chát niềm đau
Đời người phai mau


Người đàn bà đi nhặt mặt trời
Hong ấm tình yêu của loài người
Buồn thương nơi ấy
Có người hóa điên
Quen mùi chăn gối
Nhưng chẳng nhớ tên
Trên đống bỏ hoang mà lầm thiên đàng
Trên đống bỏ hoang mà lầm thiên đàng

NGUYỄN VĂN ĐÔNG

TỪ TRƯỜNG - VIÊM TỊNH

Dẫu khúc thánh ca tình yêu không là giông bão.
Em vẫn là cơn biển động của lòng anh
Trong trái tim anh chỉ có em, một mình em
Trên những con đường giữa phố thị hay trong cánh rừng nguyên sơ
Đôi mắt em là ngôi sao dẩn đường cho anh tìm đến
Tình yêu dù tuyệt vọng đến ngần nào
Anh chỉ nghe tiếng em cười vang vọng chốn em
Em trở thành vị thánh trước ngưỡng cửa thiên đàng
Nơi anh thở
Anh sống trong niềm hoan lạc
Cuộc đời anh
Hãy trao cho anh tiếng thở dài
Của trái tim mà em đang thổn thức

CÁO LỖI. . .



VÌ LÝ DO NGOÀI Ý MUỐN
VIỆT NAM HỒ SƠ HẬU CHIẾN XIN TẠM NGƯNG MỘT KỲ
VNHSHC KỲ 68 SẼ ĐĂNG VÀO THỨ NĂM NGÀY 28.04.2011
XIN CÁO LỖI ĐẾN BẠN ĐỌC VÀ THÂN HỮU

Hương đêm


Đêm khuya nguyệt vén mây .. e ấp
Hé nửa vầng soi .. nửa thẹn thùng
Nghiêng nghiêng thân trải vờn biển bạc
Cợt nước lăn tăn sóng vỗ về

Gió thu lãng đãng mơn man tóc
Ru hồn lữ khách thoáng mơ mơ
Dừng chân hưởng nguyệt say trong gió
Là đà cánh nhạn .. đón hương đêm ..

GIẬN CHI LÂU RỨA? - TRẦN DZẠ LỮ

Gửi 2 L
Giận chi lâu rứa em tề
Để anh chết đứng nơi quê quán…sầu ?
Tội tình con mắt dao cau
Chiều nghiêng, mi khép phai màu nắng xanh !
Đêm đêm anh đứng một mình
Ngu ngơ nhớ Phụng-Nghi-Đình có em…
Giận chi lâu rứa răng đành
Cõi anh hiu quạnh, cõi tình bơ vơ?
Tội tình con mắt em xưa
Nhớ ơi Phò Trạch chiều mưa ai về?
Chờ nhau tận phố cùng quê
Giận nhau chi nữa, hãy về với anh…

T D L
( SàiGòn tháng 3 năm 2011 )

NGÀY ANH NHỚ EM - NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO

Anh đã hỏi em sao nhớ em nhiều đến thế
sao con nước vơi đầy chở nặng một dòng sông
sao những buổi chiều qua cầu anh lẽ bóng
Người gặp trên đường hơi ấm đâu quen?

Anh đã nhắn cho em anh yêu em nhiều đến thế
sao muộn ngày, muộn tháng, muộn năm
những khoảng cách em đắp bằng nỗi nhớ
làm sao đêm không cô độc một mình?

Anh đã đi tìm dọc những góc phố quen
có tóc ai thơm nhẹ lay nỗi nhớ
có dáng ai hiền mỏng manh thềm lá
liệu chúng mình có thành nợ thành duyên?

Anh đã hỏi em sao anh yêu em nhiều đến thế
em chia tim anh thành những thác ghềnh
em mặc định tình yêu anh và em đã khóc
một dòng sông không chảy ngược hai lần.

17-4-2011

N.T.A.Đ

CUỘC HẸN - TỪ HOÀI TẤN


Trong một cố gắng không dừng lại
Tôi hẹn hò em
Ám hiệu ngắn 9 giờ sáng – góc ngã tư – bờ tường tím – đội nón xanh
Tin đi
Người đi
Cuộc hẹn đi
Thời gian đi

Và như thế
Trong một cố gắng không dừng lại
Tin mất
Người mất
Cuộc hẹn mất
Thời gian mất

Chỉ còn lại
Tôi

THT

BÁO ĐỘNG NGUỒN NƯỚC SÔNG HƯƠNG - BÙI NGỌC LONG


Cán bộ kỹ thuật của CT TNHH NN1TV xây dựng và Cấp nước Thừa Thiên - Huế đang lấy mẫu nước đỏ ngầu ngay dưới chân đập thủy điện Bình Điền.Ảnh :TCN


Chất lượng nguồn nước sông Hương đang bị suy giảm nghiêm trọng. Viễn cảnh về một dòng sông Hương bị “đầu độc” và 400.000 dân TP Huế và khu vực phụ cận có nguy cơ sẽ không còn được dùng nước sạch an toàn là điều có thể nhìn thấy trước.

Báo cáo Tác động của hồ chứa thủy lợi, thủy điện đối với cộng đồng hạ lưu hệ thống sông Hương của nhóm nghiên cứu Nguyễn Đình Hòe (Hội Bảo vệ thiên nhiên và môi trường VN) và Nguyễn Bắc Giang, Nguyễn Tiến Hoàng và Nguyễn Thị Hồng (khoa Môi trường- ĐHKH Huế) tại hội thảo Đánh giá tác động và đề xuất giải pháp quản lý, khai thác hiệu quả các hồ chứa nước ở Bắc Trung Bộ (diễn ra tại TP Huế, đầu tháng 11.2010) cho thấy, chất lượng nước của hệ thống sông Hương (giai đoạn 2008-2010) đang suy giảm mạnh so với trước đây.

Hệ lụy này khiến Công ty TNHH nhà nước một thành viên xây dựng và cấp nước Thừa Thiên - Huế (Công ty cấp nước Thừa Thiên - Huế) nhận được đơn, thư phản ánh chất lượng nước máy sinh hoạt tại địa bàn TP Huế và các vùng phụ cận bị nhiễm đục, hôi tanh. Trong đó có trường hợp một người nước ngoài sau khi tắm ở bể bơi của một khách sạn trong TP đã hoảng loạn vì tóc từ màu vàng chuyển sang... màu đỏ. Đáng nói, chất lượng nguồn nước suy giảm này diễn ra ngay sau thời điểm Công ty cấp nước Thừa Thiên - Huế vừa công bố đã cấp nước an toàn trên toàn tỉnh (Tổ chức Y tế thế giới công nhận là đơn vị điển hình cấp nước an toàn đầu tiên ở VN).

Ngoài suy giảm chất lượng nguồn nước, các báo cáo khoa học còn đưa ra dẫn chứng các hồ chứa thủy điện và thủy lợi sẽ làm thay đổi chế độ dòng chảy, suy giảm đa dạng sinh học và tài nguyên sinh vật vùng hạ lưu. Ngoài ra, khi các dự án thủy lợi, thủy điện ở thượng nguồn sông Hương, Bồ được xây dựng xong, lượng cát sỏi bổ sung từ thượng nguồn về hạ du sẽ không còn... dẫn đến tình trạng khủng hoảng nguồn tài nguyên này. Ông Trương Công Nam - Giám đốc công ty cho biết, nguyên nhân làm nguồn nước sông Hương xấu đi là do thủy điện Bình Điền. “Sau khi đưa vào vận hành (tháng 5.2009) nhà máy này đã không làm sạch thảm thực vật ở lòng hồ và thiết kế thiếu van xả đáy làm cho nước thiếu ô-xy nghiêm trọng, dẫn đến nguồn nước sông Hương không thể tự thanh lọc và oxy hóa sắt, mangan như trước đây”. Theo ông Nam, để đảm bảo cấp nước an toàn cho người dân, hai năm qua, công ty ông đã phải chi hơn 12 tỉ đồng để súc rửa đường ống, đổi mới công nghệ... Và đến thời điểm này, sau gần 18 tháng xử lý, hàm lượng sắt và mangan trong nước tuy đạt tiêu chuẩn theo quy định của Bộ Y tế, nhưng vẫn còn rất cao so với thời điểm năm 2008 (lượng mangan năm 2010 tăng 19 lần so với 2008; lượng sắt năm 2010 tăng 2,6 lần so với năm 2008), dẫn đến việc nước dễ đóng cặn, thỉnh thoảng gây ra tình trạng nước đục đen và vàng trên mạng phân phối.

Hiện ở thượng nguồn sông Hương còn có thêm công trình hồ chứa nước Tả Trạch vừa chặn dòng. Viễn cảnh về một dòng sông Hương bị “đầu độc” và 400.000 dân TP Huế và khu vực phụ cận có nguy cơ sẽ không còn được dùng nước sạch an toàn là điều có thể nhìn thấy trước.

B N L( TNO)

CHIỀU NGHIÊNG BÓNG NHỚ - HẠ NHIÊN THẢO

Nghiêng nghiêng bóng nắng bên dòng
Lục bình hoa nở giữa lòng sông trôi
Hoàng hôn sóng sánh chiều rơi
Đưa em về đến bên trời nhớ thương

Ngập ngừng sen trắng vấn vương
Ai hay trăng muộn giữa vườn hư không
Bụi trần sương khói mênh mông
Chiều xưa hoa tím bên sông nhớ người

Xa mờ nửa mảnh trăng rơi
Cánh chim hồng nhạn lạc trời về đâu
Ngày dài trở giấc mưa ngâu
Cho em vương mãi u sầu đêm thâu

Nhìn vầng trăng khuyết trong nhau
Vô thường giọt lệ ngàn sau mãi còn
Biển hoang sóng vỗ chân cồn
Sao không xát bụi mà hồn em đau...

CAO HUY KHANH - VN HỒ SƠ HẬU CHIẾN 1975-2011(KÌ 67)


NHỮNG SỐ PHẬN KỲ LẠ

671 - Chu Thế Dũng
THƯƠNG BINH BỊ ÉP… NUÔI CON NUÔI!
Thương binh sinh tại miền Bắc. Sống ở Bắc Ninh (2007).
Năm 21 tuổi đang học ĐH Thủy lợi năm thứ tư thì tình nguyện đi bộ đội vào miền Nam chiến đấu dù thuộc diện ưu tiên miễn dịch vì là con một bố mẹ đều là liệt sĩ thời chống Pháp. Trong một trận đánh ở Khe Sanh (Quảng Trị) bị trúng đạn ở cột sống được trực thăng Mỹ đưa về cứu chữa tại quân y viện tại Đà Nẵng. Sau đó bị đưa ra giam ở đảo Phú Quốc. Năm 1973 được trao trả tù binh, là thương binh cụt một chân ngồi xe lăn nên được chuyển về Trung tâm Điều dưỡng thương binh nặng Thuận Thành ở Bắc Ninh. Tại đây gặp và kết hôn với một nữ y tá từng phục vụ 10 năm trên chiến trường Quảng Trị. Do cả 2 vợ chồng đều là thương binh sức khỏe bị tổn thương nhiều nên không có con. Vì vậy mới nhận một bé gái 6 tháng tuổi bị bỏ rơi trước cổng trung tâm làm con nuôi dặt tên là bé Phước. Ai ngờ 2 năm sau lại cũng người mẹ bỏ rơi con đó biết được con mình ai nuôi nên tìm đến đem theo một… bé trai mới sinh được 15 ngày xin 2 vợ chồng thương binh… nuôi tiếp giùm! Gọi là để cho chúng nó… có chị có em! Từ chối mãi không được (thậm chí bà mẹ ruột còn tính để con đó rồi… bỏ chạy!) đành phải miễn cưỡng mà nhận, đặt tên “Phước” nối tiếp tên “Hạnh” của chị. Thế là chồng ngồi xe lăn, vợ còm cõi chạy chợ vất vả kiếm thêm đồng ra đồng vào nuôi 2 đứa con người dưng nước lã cùng sống chung trong trung tâm. Nay thì 2 con đều đã vào đại học, thành người đàng hoàng. Đó là “hạnh phước” lớn nhất đền bù cho bố mẹ nuôi bất đắc dĩ.

672 - Hoàng Văn Uyên
THEO NGƯỜI YÊU ĐẾN CÙNG
Thương binh sinh tại miền Bắc. Sống ở Bắc Ninh (2007).
Bộ đội chiến đấu ở miền Nam, có người yêu là thanh niên xung phong tham gia mở đường Trường Sơn. Năm 1965 cô bị trúng bom mất cả 2 cánh tay trong trận bom hủy diệt hầu hết tiểu đội nữ, được đưa về Trung tâm An dưỡng thương binh nặng Thuận Thành ở Bắc Ninh. Không báo tin cho người yêu bộ đội ở miền Nam sợ mình sẽ trở thành gánh nặng cho người yêu. Nhưng có đồng đội vẫn báo tin, anh liền xin phép cấp tốc ra Bắc tìm lên tận trung tâm tìm người yêu và kiên quyết tổ chức lễ kết hôn ngay tại đây. Xong đám cưới lại vội vàng lên đường quay về Nam ra mặt trận. Cùng lúc người vợ cũng kịp mang thai đứa con đầu lòng. Chiến tranh kết thúc, người chồng cũng trở thành thương binh tai bị điếc nên khi ra quân đã xin về làm tại Trung tâm Thuận Thành để tiện việc chăm sóc vợ con. Từ đó dù sức khỏe suy giảm nhiều nhưng vẫn vừa làm việc tại trung tâm vừa tự tay săn sóc vợ như chăm con mọn, làm mọi việc giúp vợ từ chải tóc, tắm rửa đến bón cơm. Còn lo nuôi 2 con trai nay đều đã thành tài tốt nghiệp đại học. Bao vất vả cuộc sống gian nan đời vợ chồng thương binh 100% như thế vẫn qua được, còn tự an ủi: “Tôi là người hạnh phúc vì còn có một mái ấm gia đình. Nhiều bạn bè của tôi đã không thể trở về nữa…”

673 - Nguyễn Trọng Đạt
THƯƠNG PHẾ BINH “NGƯỜI CHẾT 2 LẦN”
Sĩ quan chế độ cũ sống ở Buôn Ma Thuột (2010).
Năm 1972 là đại úy nhảy dù tham gia trận đánh An Lộc (Bình Phước) trong mùa hè đỏ lửa 1972 bị thương thủng đùi và gãy xương quai xanh nên được giải ngũ. Nhưng sau 75 vẫn bị bắt đi cải tạo 8 tháng 23 ngày. Trở về kiếm đất trồng cà phê cầm cự sống qua ngày. Nào ngờ năm 1988 khi đang đào hố trồng cây cà phê thì trúng nguyên một trái M79 nổ tung làm cụt luôn cả 2 tay!

674 - Nguyễn Văn Thu
NGƯỜI HIẾN XÁC
Cán bộ về hưu sinh 1918. Sống ở TPHCM (2011).
Đã hơn 90 tuổi vẫn sẵn sàng cho đi tất cả – làm từ thiện -- từ tiền bạc gia sản, đất đai đến cả cái thân xác mình sau khi v? v?i cát b?i! Vì nguy?n v?ng: “Th?i ho?t ??ng cách m?ng tơi ???c nhi?u ng??i c?u mang, ?ùm bọc. Giờ tôi có khả năng chẳng lẽ không giúp ít nhiều cho người nghèo, người khốn khổ?” Vì vậy dành dụm từng đồng tiền hưu để giúp đỡ người nghèo, bất hạnh, người khiếm thị: “Người khiếm thị còn biết nghĩ đến giúp đỡ bạn đồng cảnh ngộ, người sáng mắt như tôi lẽ nào dửng dưng?”. Tiền hưu hàng tháng chỉ xài chừng 500.000 đồng, ăn uống đạm bạc, dùng toàn đồ cũ loại đồng nát kể cả chiếc xe đạp lọc cọc: “Tôi còn khỏe ăn uống sao chẳng được. Trong khi đó nhiều người chẳng có cơm ăn, không có canh mà húp…” Còn cho vợ chồng con cái ngườøi nghèo từ Bến Tre lên thành phố kiếm sống cắm lều ở trên mảnh đất của mình không hề lấy đồng nào. Năm 2003 viết thư cho Hội Bảo trợ bệnh nhân nghèo TPHCM để lại di chúc hiến toàn bộ tài sản sau khi mất cho hội dùng cho công tác giúp người nghèo mổ mắt. Nhưng sau đó nghĩ lại bèn quyết định đem bán hết gia sản gom được 500 triệu đồng năm 2005 đưa luôn cho hội: “Nếu để đến khi mình xuôi tay nhắm mắt biết bao giờ, như vậy người mù nghèo phải cam chịu cảnh sống mù lòa lâu quá. Chi bằng làm từ thiện được lúc nào thì nên làm ngay.” Thậm chí còn căn dặn người thân khi mình mất đi hãy lấy tiền Nhà nước cấp cho làm đám tang (dành cho cán bộ lão thành) tiếp tục góp quỹ từ thiện bởi mình đã làm đơn hiến xác cho trường Y rồi đâu cần làm lễ tang tốn tiền vô ích!

675 - Tiêu Dao Bảo Cự
TỪ “BẤT ĐỒNG CHÍNH KIẾN” ĐẾN TRỞ VỀ TÂM LINH
Nhà văn tên thật Nguyễn Phước Bảo Cự sinh 1945 tại Huế. Sống ở Đà Lạt (2011).
Trước 75 dạy học ở Buôn Ma Thuột rồi Bảo Lộc song song với hoạt động chống Mỹ – Thiệu trong phong trào sinh viên trí thức ở Tây nguyên, viết văn làm thơ theo hướng này. Năm 1974 được kết nạp Đảng. Sau 75 được phân công làm ở Đoàn Thanh niên, Mặt trận Tổ quốc Bảo Lộc và Lâm Đồng. Rồi chuyển về Hội Văn học nghệ thuật Lâm Đồng, làm Phó Tổng biên tập tạp chí văn nghệ Langbian của hội. Năm 1988 tích cực ủng hộ nhà văn Bùi Minh Quốc - chủ tịch hội lúc đó – theo ông cùng mở cuộc “trường chinh” đi khắp nước vận động giới văn nghệ sĩ toàn quốc lấy chữ ký kêu gọi chế độ cộng sản hiện hành mở rộng tự do dân chủ. Kết quả cả 2 bị cách chức, khai trừ Đảng, đóng cửa luôn Langbian! Bản thân bị truy bức, tra hỏi, quản chế tại gia 2 năm. Đành tìm quên bằng nghề… làm vườn chăm sóc mảnh vườn “Động hoa vàng” của mình. Song song đó rút vào hoạt động viết lách thầm lặng, viết nhiều bài bình luận, kiến nghị chính trị gửi đăng trên các diễn đàn hải ngoại tiếp tục tranh đấu đòi quyền tự do dân chủ cho VN. Đặc biệt phản đối mạnh mẽ việc bắt giữ cầm tù một số bạn bè cùng chí hướng “trí thức bất đồng chính kiến” tại Lâm Đồng. Tuy nhiên càng về sau, quan điểm lập trường phản kháng có vẻ “mềm” hơn để đi đến những suy nghiệm ôn hòa rút ra từ thực tiễn xã hội: “Dù sao đi nữa, tôi vẫn giữ vững lập trường hòa giải, hòa hợp dân tộc theo quan niệm riêng của mình vì nếu nó chưa có hiệu quả tức thời thì ít ra cũng không gây thêm thương tổn…” Từ đó có cái nhìn chung cục mở rộng ra cả đất nước, dân tộc: “Hoàn cảnh đất nước có vô số câu hỏi được đặt ra cần có câu trả lời và hành động thiết thực. Thực tế cho thấy đã có những câu trả lời và hành động rất khác nhau. Điều quan trọng là cần có một nền tảng chung. Ngoài những giá trị phổ quát như tự do dân chủ, nhân quyền, phồn vinh, công bằng xã hội, không thể thiếu tình yêu và lòng bao dung, nhân ái. Việt Nam với một lịch sử đầy chia rẽ, hận thù, bất công, tàn phá, một hiện tại còn nặng về di sản quá khứ và chồng chất thiên tai nhân họa nếu thiếu những điều đó e rằng những mùa xuân tới sẽ không có được như mong mỏi của mọi người…” Bản thân cũng tìm về đời sống nội tâm nhiều hơn – từ bài học lắng lòng mình trở về với thiên nhiên, cây cỏ hoa lá Đà Lạt -- : “Bài học tâm linh không hề xa vời mà chính là một thái độ sống hàng ngày góp phần giải quyết những nan đề của cuộc sống… Cái đẹp và niềm say mê cái đẹp đã cứu tôi ra khỏi cảnh khốn cùng, cả về vật chất cũng như tâm linh.” Đến năm 1998 lệnh quản thúc được tạm dỡ bỏ. Năm 2009 cả 2 vợ chồng còn đi Mỹ chơi 6 tháng theo lời mời của bạn bè.

676 - Trần Mai Hạnh
NGƯỜI “PHƯỚC LỚN”
Thường dân sinh tại miền Bắc. Sống ở Hà Nội (2011).
Nhà báo Thông tấn xã VN trong chiến tranh chống Mỹ từng được cử vào lăn lộn một thời gian trên chiến trường Quảng – Đà. Sau 75 đường hoạn lộ ngày càng lên cao ở thông tấn xã. Bất ngờ khoảng năm 1987 gặp một tai nạn giao thông khủng khiếp vậy mà vẫn sống sót như một phép lạ: Tự mình lái xe máy chở một đồng nghiệp vừa thăng chức Trưởng Chi nhánh TTX tại TPHCM chạy ngược đường chui tọt xuống dưới gầm xe tải! Người đồng nghiệp bất hạnh ngồi sau chết ngay tại chỗ, còn mình lại thoát chết kỳ diệu, chỉ bị thương tích nặng mù một mắt gãy tay gãy chân. Người được xem là quá may mắn hưởng phúc trời quá lớn sau đó tiếp tục lên như diều vào Trung ương Đảng, làm giám đốc Đài Phát thanh Tiếng nói VN, Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hội Nhà báo VN kèm Tổng biên tập tuần báo Nhà báo và Công luận của hội. Đùng một cái năm 2003 bị đưa ra tòa xử tội nhận hối lộ để chạy án cho tên trùm xã hội đen Năm Cam ở TPHCM! Lãnh án tù rồi sau đó được chiếu cố giảm án thả trước thời hạn vào khoảng năm 2008. Là “phúc trung hữu họa” hay “phước bất trùng lai”?

677 - Trần Thị Hải Lý
NỮ TƯỚNG CHỐNG LÂM TẶC
Cán bộ kiểm lâm sinh 1955 tại Quảng Bình. Sống ở Quảng Bình (2007).
Năm 1972 mới 17 tuổi đã tình nguyện đi bộ đội vào Đoàn 559 chiến đấu trên dãy Trường Sơn. Sau 75 làm công ty lương thực huyện an nhàn nhưng vì tình cảm gắn bó nhiều năm với rừng già Trường Sơn nên năm 1996 xin chuyển công tác qua hạt kiểm lâm huyện Triệu Phong. Một phần nữa cũng vì chồng làm ngành này. Bắt đầu từ đó dù phận nữ nhi nhưng phải liên tục đương đầu với nạn lâm tặc hung hãn liều mạng. Với tinh thần bộ đội một thời không hề nao núng nhường bước trước bọn cướùp gỗ mà luôn luôn kiên trì đối đầøu chặn bắt chúng quyết liệt. Đặc biệt nổi tiếng là “Nữ tướng xe Win” vì thường táo bạo phóng xe máy rượt đuổi chúng tận rừng sâu! Dù đối diện hiểm nguy thường trực song bản thân may mắn vẫn bình yên. Nhưng bù lại phải trả một cái giá quá đắt: Con trai đầu theo nghiệp cha mẹ năm 2005 mới 24 tuổi đã bị lâm tặcï phục kích giết chết vứt xác trong rừng sâu.

678 - Trần Thị Hiền
“HIỀN 58”
Thương binh sinh 1952 tại Thừa Thiên – Huế. Sống ở Huế (2007).
Biệt danh “58” là nói về 58… mảnh đạn hiện còn nằm trong cơ thể người nữ thương binh này! Từ năm 15 tuổi đã vào bộ đội làm y tá và hậu cần gùi gạo. Năm 1972 và 1973 hai lần lọt vào ổ phục kích bị trọng thương vô số vết thương trong toàn cơ thể. Lần sau đồng đội tưởng đã chết suýt đem đi chôn! Đến khi kịp phát hiện thấy còn thở mới chuyển về Hà Nội cứu chữa nhưng bác sĩ không dám gắp ra 58 mảnh đạn còn nằm trong người toàn ở những chỗ nhược – trên mặt, trong đầu, ngực…. - do sợ nguy hiểm đến tính mạng, nhất là thời đó phương tiện y khoa còn nghèo nàn. Rồi được chuyển lên Vĩnh Phú an dưỡng. Sau 75 quay về quê nhà TT – Huế với chuẩn thương binh nặng 4/4. Lập gia đình với một đồng đội cũ. Cả 2 vợ chồng cùng làm việc ở hợp tác xã nhưng do con đông (6 con) nên gặp cảnh túng quẫn mắc nợ thóc của hợp tác xã trị giá lúc đó 1 chỉ vàng không trả được. Không mặt mũi nào ở lại hợp tác xã nên 2 vợ chồng bèn đưa con cái bỏ lên rừng tự lực cánh sinh, chủ yếu là đốn củi đem xuống núi bán lấy tiền đắp đổi qua ngày dù bản thân mất xương bánh chè đi đứng khó khăn. Chấp nhận sống cảnh “người rừng” bốn bề chim kêu vượn hú quanh năm lại thêm 58 mảnh đạn “nằm vùng” trong châu thân thường xuyên nổi lên gây bệnh nhức buốt cả người quằn quại mà chồng con không có cách nào đưa xuống núi về trạm y tế để cứu chữa. Dù vậy vẫn cắn răng chịu đựng đến năm 1991 dành dụm được 1 chỉ vàng đủ trả nợ, cả nhà mới dắt díu nhau từ giã rừng núi về làng quê trở lại với cuộc sống văn minh. Đời sống dần dần tạm ổn tuy các con đều chẳng đứa nào được học hành tử tế đành phải đi làm thuê làm mướn mà sống. Nhưng càng lớn tuổi thì 58 “di tích chiến tranh” trong toàn thân càng nổi lên quậy dữ – đặc biệt 2 mảnh đạn nằm ở màng tim và 2 mảnh khác trong màng phổi – khiến nhiều khi đau xé người tới mức như lên cơn động kinh hoảng loạn. Lên xe đi cấp cứu là chuyện thường ngày ở huyện: ““Tôi sống đây cũng như chết rồi”! Nhưng đành phải sống cảnh “như chết” đó vì chẳng còn cách nào có thể cùng lúc lấy ra hết 58 mảnh đạn kia – hay một phần thôi – do rất mất công, chi phí cao mà chưa chắc làm được bao nhiêu vì thời gian đã quá lâu tới mức có mảnh đạn còn lồi ra cả ngoài da.

679 - Trần Thị Hoan
ĐẾN MỸ ĐI TRÊN 2 ĐÙI CHÂN
Sinh viên sinh 1987 tại Bình Thuận. Sống ở TPHCM (2011).
Vừa ra đời đã bị di chứng CĐDC khiến cả 2 chân và cánh tay trái cụt quá nửa, chân cụt trên đầu gối. Vì vậy phải ngồi xe lăn hoặc nếu tự đi thì bước từng bước lủn củn trên phần thịt đùi còn lại. Đã vậy gia đình còn phải đi kinh tế mới trên huyện Đức Linh xa xôi nên không được đến trường. Một thời gian dài mới có ân nhân biết được tìm cách đưa về nuôi dưỡng ở làng Hòa Bình của bệnh viện Từ Dũ – TPHCM dành cho trẻ em nạn nhân CĐDC. Được giúp theo đuổi việc học, vào ĐH Ngoại ngữ – Tin học TPHCM. Từ đó năm 2010 được cử làm đại diện thế hệ thứ hai chịu tác động CĐDC qua Mỹ tham dự phiên điều trần về vấn đề tác hại của CĐDC trước quốc hội: “Tôi đã nói với họ rằng như tôi thế này vẫn còn may mắn lắm hơn nhiều bạn đồng cảnh ngộ. May mắn là tôi vẫn còn tinh thần minh mẫn nhưng có rất nhiều người không được như thế…”ä

680 - Trần Thị Huôi
HƠN 1.300 NGÀY ĐÊM SỐNG CÔNG VIÊN KHIẾU NẠI LÊN TRUNG ƯƠNG
Cán bộ về hưu sinh 1944 tại Sóc Trăng. Sống ở Sóc Trăng (2007).
Từ năm 14 tuổi đã theo cộâng sản đánh Mỹ, còn trẻ đã làm bí thư huyện. Chồng hy sinh trong chiến đấu để lại một con gái mới mấy tháng tuổi. Sau 75 làm thị ủy viên rồi Chủ tịch Hội Nông dân. Cả mẹ ruột lẫn mẹ chồng đều được phong Bà mẹ VN Anh hùng. Sau khi về hưu thương binh 4/4, mua một mảnh đất nhỏ dựng nhà trong đó có xây một chuồng heo nuôi heo cải thiện đời sống. Đùng một cái năm 1996 có người hàng xóm làm đơn kiện đòi lại mảnh đấùt làm chuồng heo nói trước kia là của mình. Chính quyền xem xét mới thấy đó nguyên là đất công – chỉ rộng 16,32m2 - nên ra lệnh thu hồi rồi đưa nhân viên công quyền đến phạt tiền đồng thời… đập luôn chuồng heo! Nhưng sau đó cứ để nguyên mảnh đất như vậy bởi nó bé tí tẹo đâu có làm được gì. Bản thân làm đơn khiếu nại lên thị xã lẫn tỉnh đều bị bác đơn. Gửi đơn lên Trung ương cử đoàn về kiểm tra cũng không qua được địa phương nêu đủ lý do biện minh việc làm quá đáng kể trên. Không nản lòng, đầu năm 2001 một thân một mình khăn gói ra tới Hà Nội bắt đầu cuộc chiến đấu đơn thương độc mã sống lây lất ở thủ đô hơn 3 năm trời để khiếu kiện lên vô số cấp thẩm quyền Trung ương. Không bà con quen biết gì ở đây nên đã chọn công viên Lý Tự Trọng hoặc bờ Hồ Tây làm nơi cư ngụ kiểu bụi đời, tự nấu ăn tại chỗ. Ngày đi khắp nơi nộp đơn kêu cứu (cả chừng 1.000 đơn), tối về căng lều nằm ngủ tạm kể cả trời mùa đông giá buốt (sáng phải giấu đồ sợ công an tịch thu!). Gặp khi con gái ở quê không gửi tiền ra kịp thì đi làm thuê làm mướn vạ vật (rửa chén nhà hàng, phụ bán cá ở chợ…) hoặc xin cơm thừa canh cặn ăn đỡ qua ngày. Tết cũng không có tiền về quê đành “ăn Tết” công viên. Cuối cùng cũng có kết quả: Năm 2003 Phó Tổng Thanh tra Chính phủ họp với tỉnh Sóc Trăng kết luận tỉnh đối xử như vậy là “không thích hợp”, nay tỉnh phải đền bù cho “nguyên đơn” một mảnh đất khác và hỗ trợ cuộc sống cho đương sự. Nhờ đó tháng 10.2004 mới chia tay Hà Nội trở về quê nhà, được cấp miếng đất khác và lãnh “bồi thường” thêm 100 triệu đồng. Nhưng bù lại, bản thân bị Thị ủy… xóa tên khỏi Đảng, lấy lý do bỏ sinh hoạt Đảng và không đóng Đảng phí… 5 tháng (con chậm nộp thay cho mẹ kẹt ở Hà Nội)! Thế là lại tiếp tục khiếu nại lên cấp ủy đòi lại Đảng tịch. Tỉnh không giải quyết nên lại gửi đơn ra Trung ương “kêu” tiếp. Đếùn năm 2006 Trung ương đã yêu cầu tỉnh kiểm tra sự việc song chưa thấy hồi âm. Chưa biết cuộc “trường chinh” khiếu nại Đảng lần này có tiếp tục “hiệp 2” hay không với người đàn bà luôn “tin sự hy sinh của gia đình tôi trong chiến tranh không uổng phí”.
(Còn tiếp)