KỶ NIỆM 10 NĂM NGÀY MẤT NHẠC SĨ TRỊNH CÔNG SƠN

NGHI ÁN TRỊNH CÔNG SƠN VƯỢT BIÊN...TRONG NƯỚC
Ngày 30.4.75 đang ở Sài Gòn nhưng ngay sau đó đã hăng hái tình nguyện lên đường quay về Huế quê nhà tuổi thơ và tuổi trẻ để góp sức xây dựng lại quê hương điêu tàn sau chiến tranh như trong một ca khúc của mình. Thật oái oăm mà khắc nghiệt là nếu cứ ở lại Sài Gòn thì đã không phải trải qua một đoạn đời cay đắng khổ sở sau này ngay trên quê Huế thân thương (sinh Đắc Lắc song từ nhỏ đã theo cha mẹ gốc Huế quay về sống ở Huế).


Bởi đâu ngờ cách mạng chiến thắng Huế lúc ấy mang nặng ảnh hưởng Mao-ít đã đưa một số văn nghệ sĩ có hoạt động xem như “cộng tác” với chế độ cũ, chỉ có lập trường kêu gọi hòa bình chung chung chứ không chịu móc nối hoạt động nội thành hoặc thoát ly vào mật khu – như mình và Đinh Cường, Ngụy Ngữ - ra kiểm điểm công khai! Rồi đưa đi thâm nhập lao động thực tế với yêu cầu sáng tác phục vụ chế độ mới… Trước bao nhiêu o ép đó, cuối cùng phải chọn biện pháp ra đi rời khỏi quê hương mà mình từng ấp ủ nguyện vọng trở về đóng góp.


Đây là một nghi vấn lịch sử chưa có lời giải chính thức công khai. Nó nằm trong bối cảnh sau ngày 30.4.1975 từ Sài Gòn họ Trịnh tình nguyện trở về Huế “góp phần xây dựng lại quê hương” như phong trào thời đó kêu gọi. Nhưng giấc mơ đó đã sớm tan vỡ trước một thực tế nghiệt ngã của buổi sơ khai thời Hậu chiến có hòa bình rồi nhưng chưa có hòa hợp với biết bao hận thù, thành kiến nghi kỵ còn đó. Nhất là đối với những nhân thân “chưa xác minh”, những nhân vật có quan điểm lập trường “mơ hồ” như Trịnh qua những thông điệp Ca khúc da vàng “nội chiến từng ngày”, “Hát cho người nằm xuống”… bị lên án mà mãi đến nay vẫn chưa được giải tỏa.


Ngay cả các lực lượng cách mạng cũng có sự phân biệt quyền lực với nhau theo chủ trương quản lý thời này “Nhất trụ, nhì khu, tam tù, tứ kết” tức là ưu tiên lãnh đạo cho thành phần cán bộ địa phương bám trụ chiến đấu, sau đó mới đến ở mật khu về, ở tù về rồi mới đến dân tập kết vào. Huống gì là dân văn nghệ nửa nạc nửa mỡ không chống mà cũng không theo Cộng như Trịnh!


Mặt khác cần chú ý tình hình chính trị Huế thời đó nằm trong “liên bang” Bình Trị Thiên có vị trí chiến lược khép cửa miền Bắc dưới chân đèo Hải Vân tách biệt miền nam từ Đà Nẵng trở vào với đôi bên hai chính sách quản lý khác nhau: Áp dụng chế độ nội bất xuất ngoại bất nhập ngặt nghèo đi đâu cũng phải được cấp phép; vẫn còn dùng 2 loại tiền nên về đây phải đổi tiền Bắc mới xài được…. Từ đó Huế vốn là kinh đô phong kiến kẻ thù cộng sản dưới quyền Bí thư Bùi San và Giám đốc sở Trần Hoàn phụ trách văn hóa thông tin trở thành gần như một “đặc khu” độc lập khép kín thí điểm công xã, thành trì Mao-ít cực tả, cộng sản hơn cả miền Bắc! Từ đó mới có câu ca dao truyền miệng để đời “Bùi San cùng với Trần Hoàn, Cả hai xúm lại phá đàn Nam Giao”!


Tội nghiệp họ Trịnh người trói gà không chặt, hiền lành “mô Phật”, hoàn toàn ngây thơ chính trị bị rơi vào cảnh “botay.com” như thế.


Quá bế tắc, năm 1979 nhân một chuyến công tác vặt vào TPHCM – nơi đã có sẵn nhà từ trước - mới quyết định bỏ Huế “trốn” vào ở luôn tại TPHCM tìm sự che chở của những người thông cảm mình (giới văn nghệ sĩ chế độ mới như Nguyễn Quang Sáng, Nguyễn Duy cùng bí thư lúc đó là cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt) nơi một thành phố có tư tưởng cởi mở thoáng hơn.


Thế là từ đó hẳn đã bị cấp lãnh đạo Huế xem như một kẻ “phản bội”, đào ngũ, chạy trốn, thậm chí có thể là… phạm pháp nữa kia! Nên nhớ lúc đó như thế là đã bỏ… hộ khẩu mà đi không xin phép tất không được chuyển hộ khẩu phải tạm trú bất hợp pháp ở nơi khác.


Có lẽ đấy là nguyên nhân sâu xa đưa đến thái độ lạnh lùng, “dị ứng” của Huế đối với Trịnh – và nhạc Trịnh - kéo dài cho đến hàng chục năm sau. Huế chưa bao giờ tổ chức một lễ tưởng niệm đàng hoàng xứng đáng cho Trịnh, chưa hề có một Nhà Lưu niệm dành cho anh, đi khắp nơi cũng chẳng tìm thấy đâu một dấu vết nào của anh được trân trọng hay gìn giữ nghiêm túc.


Trong lúc đó dù sinh thời Trịnh có nói ca khúc của mình không hề đưa vào một từ “Huế” nào hết nhưng ai từng ở Huế biết Huế đều thấy toàn bộ không khí, âm hưởng, khung cảnh, con người trong đó đều rặt chất Huế. Từ mưa, cây cối, hoa lá, vườn hoa, dòng sông Hương, thiếu nữ “dời gót hài”, tóc bay vờn trong gió công viên, “chiều một mình qua phố” trên vỉa hè Trần Hưng Đạo, “nhìn những mùa thu đi” dưới vòm cây trường Đồng Khánh, “chiều đi lên đồi cao hát trên những xác người” ở Bãi Dâu… Có thể dùng nhạc Trịnh để qua đó vẽ nên một toàn cảnh Huế thời đó, qua đó lần mò đi truy tìm những dấu tích Huế xưa biến nó thành một cuốn “Tổng phổ Dư địa chí Huế”.


Chẳng những thế, người con này còn vang danh bốn biển, đã làm rạng danh xứ Huế khắp nước, là một tâm điểm để khách du lịch tìm đến.


Thế mà Huế đã từ bỏ một di sản đẹp như vậy cho một nơi xa lạ như Bình Quới (TPHCM) làm hết (mà lại làm quá tốt!) dù Festival Huế 2006 lại dùng khúc nhạc dạo đầu buổi khai mạc là bài… “Diễm xưa”! Nhưng Festival Huế lần đầu tiên trước khi mất, chẳng ai thèm gửi một tấm thiệp mời đến. Đến lúc qua đời mộ phần mình (và mẹ) cũng không được gửi về quê nhà như cố nhạc sĩ Châu Kỳ sau này được thỏa tâm nguyện từ TPHCM đưa về yên nghỉ trên đồi thông Nam Giao. Khác hẳn vài nghệ sĩ Việt kiều sau này làm sao gắn bó với Huế bằng được, không để lại dấu ấn đậm đà về Huế lại được ưu ái quá mức (cấp cho cả biệt thự, cho cả người không phải dân Huế gốc)!


Tuy nhiên sự đố kỵ, ghét bỏ, ruồng rẩy nếu có thì chỉ là của một số quan chức “chính trị” nào đó nặng quan điểm bảo thủ giáo điều ấu trỉ (trong đó không thể không nhắc đến vai trò của Giám đốc Sở VHTT lúc ấy cũng là một nhạc sĩ Huế đàn anh nổi tiếng – cố nhạc sĩ Trần Hoàn) chứ đâu phải toàn dân Huế? Cần nhắc đến giai thoại sau khi Trần Hoàn ra Bắc, năm 1986 Trịnh mới “dám” quay về lại, được mời lên sân khấu trình diễn thì lại chỉ xin hát độc một bài duy nhất “Em là hoa hồng nhỏ” gọi là “phi chính trị” rồi thôi làm mọi người ngỡ ngàng. Rõ ràng “sợ” Huế – Huế của cách mạng - quá rồi!


Xét cho cùng việc bỏ Huế ra đi – sau khi đã trở về với đầy thiện chí - là nhằm đi tìm con đường “tự cứu” hợp lý thôi, “vượt biên” vào TPHCM chứ có phải… qua Mỹ đâu (sau này có dịp đi Mỹ thăm Khánh Ly rồi cũng về đấy thôi)? “Đất lành chim đậu” – ngay trong lãnh thổ một quốc gia tự hào là đã thống nhất kia mà - là quy luật thế thôi. Mặt khác, nên nhớ nhờ được “giải phóng” một lần nữa ở TPHCM mới nở rộ thêm giai đọan sáng tác thứ ba Ca khúc Hòa bình - sau giai đoạn thứ nhất Tình khúc Tuổi trẻ và giai đoạn thứ hai Ca khúc Phản chiến. Lẽ ra Huế thời đó và cả bây giờ phải tự vấn rằng mình đã làm gì để bị chảy máu chất xám tới mức đó mới đúng.


Thật buồn cười nếu ngày đó không vì tình yêu Huế mà Trịnh hăm hở vội vã quay về mong làm việc “dựng lại người, dựng lại nhà” để vẫn “cố thủ” ở Sài Gòn thì hẳn sự tình đã khác (trường hợp tình nguyện trở về “dại dột” như vậy cũng đã xảy ra cho nhiều đứa con quê hương khác nữa). Biết đâu lại được Huế tôn vinh lâu rồi!


Tại sao Huế cứ để kéo dài tình trạng cố tình bỏ quên mà không chịu tiếp nhận đứa con lưu lạc trở về để cùng làm giàu thêm gia tài của mẹ, gia sản của quê hương? Không phải chỉ kêu gọi hãy “ôm Huế vào lòng” mà chính Huế cần mở rộng vòng tay ôm con cái vào lòng, bây giờ cả những đứa con bỏ nước ra đi cũng được chào đón gọi về kia mà.


Điều này mãi đến năm 2011 Huế mới chịu làm, bước đi bước đầu tiên đặt tên Trịnh cho một con đường nhỏ, cụt (600m) mới mở từ cầu Gia Hội men theo một nhánh sông Hương đâm xuống bến đò Cồn (nhìn qua sau lưng cồn Hến) mà lúc chưa đặt tên đã được mệnh danh là “con đường bia bọt” Huế! Dù sao thì cũng có còn hơn không nhưng chưa đủ.


CAO HUYKHANH

Trích " VN hồ sơ hậu chiến 1975-2011"

CHÂN DUNG TRỊNH CÔNG SƠN ... - NGÔ THIÊN THU


CHÂN DUNG TRỊNH CÔNG SƠN QUA NÉT BÚT HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG


Họ là đôi bạn chơi với nhau từ thời ấu thơ cắp sách đến trường, cùng lớn lên trong chiến tranh và hòa bình, cùng liêu xiêu trong những khúc rẽ cuộc đời. Họ đến với nhau bằng sự trong sáng nghệ sĩ. Trịnh Công Sơn đã để lại nhiều dấu ấn trong tâm thức Hoàng Phủ Ngọc Tường. Và chính vì điều đó chúng ta có thể thấy được một chân dung nhạc sĩ Trịnh Công Sơn qua phát họa của nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường.(*)


Trịnh Công Sơn, một du tử

Trịnh Công Sơn trước đây có một căn nhà ở Huế nằm trên đường Nguyễn Trường Tộ gần cầu Phủ Cam. Căn nhà này Hoàng Phủ Ngọc Tường gọi là căn nhà của những gã lang lang. Vào buổi tối Hoàng Phủ Ngọc Tường và họa sĩ Đinh Cường thường thả bộ từ một căn nhà thuê ở Bến Ngự bên kia sông rồi vượt qua cây cầu nhỏ để đến rủ Trịnh Công Sơn lang thang. “Chúng tôi coi cuộc đi chơi bắt đầu từ nhà Sơn, lúc ấy, mọi người đã đông đủ.Chúng tôi đi theo đường phố dọc sông Hương, kéo sang cầu Trường Tiền và ngồi vào một quán cà phê nổi tiếng thời đó. Đường vắng, hai hàng cây muối bên đường như chụm đầu vào nhau thành một cái vòm trên đầu và con đường Lê Lợi như dài thêm ra dưới ánh đèn đường. Thỉnh thoảng trên đường phố vắng chúng tôi có gặp những người phu quét đường chở lá rụng trong những chiếc xe ba gác và đẩy đi cành cạch trên mặt đường."“Chúng tôi lang thang trong những đêm mùa Hạ, thơm ngát mùi hương ngọc lan, trong những khu vườn tối, và trên trời nhiều mây trắng bay...” “Qua những cuộc rong chơi trên thành phố mến yêu, giống như những người thợ thủy tinh, chúng tôi thổi hơi thở của mình vào vào chất nhựa chai của tư duy, để làm hình thành ở đó một thế giới lấp lánh muôn màu dưới ánh sáng nghệ thuật, một thế giới từ không thành có, từ khoảnh khắc thành vĩnh cửu hoặc như bài hát của Sơn “Ta nghe đời rất mêng mông. Trong chân người bước chầm chậm”. Quãng thời gian dạy học ở Blao, đêm đến “Sơn thường ra ngoài lang thang và để đánh lùa kẻ lạ vô nhà, Sơn dung chiếc drap trắng trùm kín cây ghi ta trên gường, giả vờ người nằm bệnh...”. Nhiều đêm mất ngủ Trịnh Công Sơn lãng du đâu đó cho đến sáng. Trịnh Công Sơn mãi mãi là một người lang thang cô độc suốt hành trình của đời mình.


Trịnh Công Sơn, một “ẩm giả

“Toàn bộ âm nhạc của Trịnh Công Sơn làm bằng một thứ ngôn ngữ cực kỳ giản dị, những chi tiết đời thường chìm đắm trong nỗi buồn êm dịu của cung la thứ. Tất cả đều dùng để nói từ nhiều góc độ khác nhau, về nỗi cô đơn của số phận con người trong tiếng kêu lanh canh của những viên đá trong ly rượu. Vâng tất cả âm nhạc của Sơn là nỗi buồn; và để chuyển tải nỗi buồn là ly rượu. Trong tiêng Hán Việt người ta thường dung từ “giả” cho một số nghề nghiệp, như tác giả, soạn giả, diễn giả; chứ ít ai dám phong”nhà” cho kẻ say giống như Lý Bạch – nhà thơ vĩ đại đời Đường đã cho rằng: ...”Tự cổ thánh hiền giai tịch mịch / Duy hữu ẩm giả lưu kỳ danh” (tạm dịch: xưa nay thánh hiền đều yên lặng...chỉ người uống rượu là để lại tên tuổi). Như vậy Trịnh Công Sơn là một “ẩm giả” đích thực...” Trong đời mình Trịnh Công Sơn đã từng có “một cuộc rượu vô tiền khoáng hậu”. “Trịnh Công Sơn đã từng được ông chủ hãng rượu Martell mời qua Anh và Pháp chơi, và vào hầm rượu “thiên đường” để nhấm nháp hai ly Cô-nhắc, một ly làm năm 1845, ly khác năm 1875.” “Trịnh Công Sơn uống rượu như để trấn áp một nỗi sợ siêu hình (Cái chết) vẫn thường tỏa áp lực trong các bài hát của anh".


Trịnh Công Sơn, gã lữ hành cô đơn

“Hình như con người thời nay đã đánh mất cái cảm nhận sâu thẳm của người trèo núi ngồi nghỉ mệt trên bờ vực. Nỗi cô đơn chính là vực thẳm linh hồn mà nghệ thuật cần đạt tới, như đạt tới chân thân của mình, để từ đây biết khướt từ mọi ảo tưởng cuộc đời”. Cho dù có nhiều bạn bè và giao du khắp nơi trên trái đất nhưng Trịnh Công Sơn vẫn là người cô đơn nhất trong số những người cô đơn. “ Thời kỳ học tập ở Sư phạm Quy Nhơn, ban đầu Trịnh Công Sơn sống chung cùng mấy người bạn đều là những người hoạt động âm nhạc nổi tiếng ở Huế, sau đó anh tách ra một mình trong một căn gác hiu hắt buồn, với một chỗ nằm đơn chiếc, lộng gió, và cùng với một chiếc màn buông chùng luôn đầy những bài hát đang viết, những cuốn sách đang đọc, và nhiều khi cả một cây ghi-ta”. Thời gian Trịnh Công Sơn ở thị trấn Blao cũng tiếp nối chuỗi ngày cô đơn bất tận. Nhiều lúc ngồi một mình độc ẩm trong những đêm sương. Dấu vết về sự cô đơn bao trùm lên những tác phẩm của Trịnh Công Sơn. Hoàng Phủ Ngọc Tường viết: “Sau khi triển khai tất cả ý nghĩa của một hiện hữu vào nghệ thuật Trịnh Công Sơn chỉ nhìn thấy còn lại trong tay mình một chút vôi kết tủa của nỗi cô đơn. Có thể nói rằng nỗi cô đơn là không là không khí tản mạn khắp trong nhạc Trịnh Công Sơn, và là “tội tổ tông” con người phải gánh chịu từ thuở sơ sinh và không thể nói gì khác. Có thể nói ngay rằng nỗi cô đơn của phận người là một đóng góp quý báu của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn cho cảm hứng âm nhạc Việt Nam một thời. Trong khi mải dồn sức cho cuộc chiến tranh chống ngoại xâm, nhiều người đã quen với những lời hô hùng tráng mà quên đi rằng con người là một gã lữ hành đi trong sa mạc. Nhưng một nền nghệ thuật đánh rơi mất nỗi cô đơn của phận người chưa phải là một nền nghệ thuật hoàn hảo.”


Trịnh Công Sơn, nhà tư tưởng

Như trên đã nói nỗi cô đơn của phận người là một đóng góp của Trịnh Công Sơn cho cảm hứng âm nhạc đất Việt một thời. Trong thời gian chiến tranh Trịnh công Sơn đã sáng tác nhiều ca khúc nổi tiếng. “Tình cảm đau thương về Tổ Quốc là một cảm hứng lớn lớn nhất trong nhạc Trịnh Công Sơn…”.Nội dung phản chiến tuy nhất thời đã làm một số người không bằng lòng, nhưng đó là tư duy chủ yếu của Trịnh Công Sơn trong ba tập: Ca khúc Da Vàng, Phụ khúc Da Vành, Kinh Việt Nam...”. Trịnh Công Sơn thời niên thiếu được mẹ cho “quy y ở chùa Phổ Quang nơi dốc Bến Ngự, pháp danh là Nguyên Thọ, Sơn tụng kinh ăn chay một tháng bốn lần, không ăn nhiều hơn vì lo cho sức khỏe của Sơn, trên đầu gường Sơn luôn có một chuỗi hạt và một chiếc áo tràng màu lam. Gia đình thường hay đi chùa vào những ngàu rằm, mùng một. Vì vậy, Sơn không tránh khỏi ít nhiều tư tưởng Phật giáo, như chủ đề của các bài hát Cõi tạm, Ỏ trọ, Đóa hoa vô thường, hoặc Một cõi đi về. Nhất là tư tưởng Sinh, Lão, Bệnh, Tử vẫn thường xuất hiện trong âm nhạc Trịnh Công Sơn.” “Khác với Văn Cao và Phạm Duy, Trịnh Công Sơn là người chăm chú cúi xuống hiện hữu, và bằng kinh nghiệm sống của chính bản thân phát hiện hết mọi lẽ bất hạnh của thân phận con người.” “Sự khước từ hy vọng ảo tưởng, của những đam mê vô ích, tâm trạng lưu đày, nỗi cô đơn không cứu vãn, nỗi lo âu trước vực thẳm, vân vân, tất cả đó là những vấn đề cốt lõi của triết học hiện sinh châu Âu, cũng là cốt lõi như vấn đề sinh lão bệnh tử của Phật giáo…” và nó tìm đến thế hệ trẻ sau đệ nhị thế chiến trong đó có Trịnh Công Sơn. “Đặc biệt là cái chết, một phạm trù “kinh điển” của triết hiện sinh…” đã được Trịnh Công Sơn trình bày một cách rốt ráo trong nhiều ca khúc của mình. “Sự nhạy cảm thường trực về tính hữu hạn của đời người đã thúc đẩy trầm tư âm nhạc của Trịnh Công Sơn tiếp cận với ý thức Cát Bụi, với tâm thức lãng du qua cõi đời vô thường (Một Cõi Đi Về), nỗi hoài niệm về nơi “nguyên quán” vĩnh hằng (Bên Đời Hiu Quạnh); từ đó, vào cuối cuộc hành trình của phận người, Sơn rẽ hướng tìm về cội nguồn minh triết của phương Đông, níu lấy cái tâm của mình để sống với đồng loại.” Vâng, Trịnh Công Sơn đã thành công rực rỡ trong việc đưa triết luận riêng của mình vào nghệ thuật âm nhạc và hình thành nên phong cách nhạc Trịnh Công Sơn. Và “Điều rất lạ, toàn những ý tưởng triết học đa đoan kia, Trịnh Công Sơn chỉ một người để nói với là Người Tình.”. “Tại sao trong từng khoảnh khắc của đời mình, Trịnh Công Sơn lại chọn Người Tình để nói lại mọi điều? Có lẽ thế, bởi em sinh ra là để nuôi nấng nỗi buồn của đời tôi.” Trịnh Công Sơn là vị hoàng tử âm nhạc cùng cây đàn lya lang thang hát tình ca qua mọi thời đại và chàng trở thành bất tử vì những bản “tình ca này chính là siêu hình học và vì thế nó không bao giờ cũ”. Chàng “trở thành người tình lãng du của nhiều thế hệ” và là thiên sứ mang tình thương đến khắp thế giới chúng ta.


Huế, tháng 3 năm 2011

N T T


(*) Những đoạn văn trong dấu ngoặc kép được trích từ “Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường” (nhà xuất bản Trẻ, 2002) và “Ai Đã Đặt Tên Cho Dòng Sông”(nhà xuất bản Hội Nhà Văn, 2010).

CAO HUY KHANH - VN HỒ SƠ HẬU CHIẾN 1975-2011(KÌ 65)


NHỮNG SỐ PHẬN KỲ LẠ


Kỷ niệm 10 năm ngày mất

651 - Trịnh Công Sơn

NGHI ÁN VƯỢT BIÊN… TRONG NƯỚC Nhạc sĩ sinh 1939 tại Buôn Ma Thuột – Mất 1.4.2001 ở TPHCM (63 tuổi).

Ngày 30.4.75 đang ở Sài Gòn nhưng ngay sau đó đã hăng hái tình nguyện lên đường quay về Huế quê nhà tuổi thơ và tuổi trẻ để góp sức xây dựng lại quê hương điêu tàn sau chiến tranh như trong một ca khúc của mình. Thật oái oăm mà khắc nghiệt là nếu cứ ở lại Sài Gòn thì đã không phải trải qua một đoạn đời cay đắng khổ sở sau này ngay trên quê Huế thân thương (sinh Đắc Lắc song từ nhỏ đã theo cha mẹ gốc Huế quay về sống ở Huế). Bởi đâu ngờ cách mạng chiến thắng Huế lúc ấy mang nặng ảnh hưởng Mao-ít đã đưa một số văn nghệ sĩ có hoạt động xem như “cộng tác” với chế độ cũ, chỉ có lập trường kêu gọi hòa bình chung chung chứ không chịu móc nối hoạt động nội thành hoặc thoát ly vào mật khu – như mình và Đinh Cường, Ngụy Ngữ - ra kiểm điểm công khai! Rồi đưa đi thâm nhập lao động thực tế với yêu cầu sáng tác phục vụ chế độ mới… Trước bao nhiêu o ép đó, cuối cùng phải chọn biện pháp ra đi rời khỏi quê hương mà mình từng ấp ủ nguyện vọng trở về đóng góp. Đây là một nghi vấn lịch sử chưa có lời giải chính thức công khai. Nó nằm trong bối cảnh sau ngày 30.4.1975 từ Sài Gòn họ Trịnh tình nguyện trở về Huế “góp phần xây dựng lại quê hương” như phong trào thời đó kêu gọi. Nhưng giấc mơ đó đã sớm tan vỡ trước một thực tế nghiệt ngã của buổi sơ khai thời Hậu chiến có hòa bình rồi nhưng chưa có hòa hợp với biết bao hận thù, thành kiến nghi kỵ còn đó. Nhất là đối với những nhân thân “chưa xác minh”, những nhân vật có quan điểm lập trường “mơ hồ” như Trịnh qua những thông điệp Ca khúc da vàng “nội chiến từng ngày”, “Hát cho người nằm xuống”… bị lên án mà mãi đến nay vẫn chưa được giải tỏa. Ngay cả các lực lượng cách mạng cũng có sự phân biệt quyền lực với nhau theo chủ trương quản lý thời này “Nhất trụ, nhì khu, tam tù, tứ kết” tức là ưu tiên lãnh đạo cho thành phần cán bộ địa phương bám trụ chiến đấu, sau đó mới đến ở mật khu về, ở tù về rồi mới đến dân tập kết vào. Huống gì là dân văn nghệ nửa nạc nửa mỡ không chống mà cũng không theo Cộng như Trịnh! Mặt khác cần chú ý tình hình chính trị Huế thời đó nằm trong “liên bang” Bình Trị Thiên có vị trí chiến lược khép cửa miền Bắc dưới chân đèo Hải Vân tách biệt miền nam từ Đà Nẵng trở vào với đôi bên hai chính sách quản lý khác nhau: Aùp dụng chế độ nội bất xuất ngoại bất nhập ngặt nghèo đi đâu cũng phải được cấp phép; vẫn còn dùng 2 loại tiền nên về đây phải đổi tiền Bắc mới xài được…. Từ đó Huế vốn là kinh đô phong kiến kẻ thù cộng sản dưới quyền Bí thư Bùi San và Giám đốc sở Trần Hoàn phụ trách văn hóa thông tin trở thành gần như một “đặc khu” độc lập khép kín thí điểm công xã, thành trì Mao-ít cực tả, cộng sản hơn cả miền Bắc! Từ đó mới có câu ca dao truyền miệng để đời “Bùi San cùng với Trần Hoàn, Cả hai xúm lại phá đàn Nam Giao”! Tội nghiệp họ Trịnh người trói gà không chặt, hiền lành “mô Phật”, hoàn toàn ngây thơ chính trị bị rơi vào cảnh “botay.com” như thế. Quá bế tắc, năm 1979 nhân một chuyến công tác vặt vào TPHCM – nơi đã có sẵn nhà từ trước - mới quyết định bỏ Huế “trốn” vào ở luôn tại TPHCM tìm sự che chở của những người thông cảm mình (giới văn nghệ sĩ chế độ mới như Nguyễn Quang Sáng, Nguyễn Duy cùng bí thư lúc đó là cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt) nơi một thành phố có tư tưởng cởi mở thoáng hơn. Thế là từ đó hẳn đã bị cấp lãnh đạo Huế xem như một kẻ “phản bội”, đào ngũ, chạy trốn, thậm chí có thể là… phạm pháp nữa kia! Nên nhớ lúc đó như thế là đã bỏ… hộ khẩu mà đi không xin phép tất không được chuyển hộ khẩu phải tạm trú bất hợp pháp ở nơi khác. Có lẽ đấy là nguyên nhân sâu xa đưa đến thái độ lạnh lùng, “dị ứng” của Huế đối với Trịnh – và nhạc Trịnh - kéo dài cho đến hàng chục năm sau. Huế chưa bao giờ tổ chức một lễ tưởng niệm đàng hoàng xứng đáng cho Trịnh, chưa hề có một Nhà Lưu niệm dành cho anh, đi khắp nơi cũng chẳng tìm thấy đâu một dấu vết nào của anh được trân trọng hay gìn giữ nghiêm túc. Trong lúc đó dù sinh thời Trịnh có nói ca khúc của mình không hề đưa vào một từ “Huế” nào hết nhưng ai từng ở Huế biết Huế đều thấy toàn bộ không khí, âm hưởng, khung cảnh, con người trong đó đều rặt chất Huế. Từ mưa, cây cối, hoa lá, vườn hoa, dòng sông Hương, thiếu nữ “dời gót hài”, tóc bay vờn trong gió công viên, “chiều một mình qua phố” trên vỉa hè Trần Hưng Đạo, “nhìn những mùa thu đi” dưới vòm cây trường Đồng Khánh, “chiều đi lên đồi cao hát trên những xác người” ở Bãi Dâu… Có thể dùng nhạc Trịnh để qua đó vẽ nên một toàn cảnh Huế thời đó, qua đó lần mò đi truy tìm những dấu tích Huế xưa biến nó thành một cuốn “Tổng phổ Dư địa chí Huế”. Chẳng những thế, người con này còn vang danh bốn biển, đã làm rạng danh xứ Huế khắp nước, là một tâm điểm để khách du lịch tìm đến. Thế mà Huế đã từ bỏ một di sản đẹp như vậy cho một nơi xa lạ như Bình Quới (TPHCM) làm hết (mà lại làm quá tốt!) dù Festival Huế 2006 lại dùng khúc nhạc dạo đầu buổi khai mạc là bài… “Diễm xưa”! Nhưng Festival Huế lần đầu tiên trước khi mất, chẳng ai thèm gửi một tấm thiệp mời đến. Đến lúc qua đời mộ phần mình (và mẹ) cũng không được gửi về quê nhà như cố nhạc sĩ Châu Kỳ sau này được thỏa tâm nguyện từ TPHCM đưa về yên nghỉ trên đồi thông Nam Giao. Khác hẳn vài nghệ sĩ Việt kiều sau này làm sao gắn bó với Huế bằng được, không để lại dấu ấn đậm đà về Huế lại được ưu ái quá mức (cấp cho cả biệt thự, cho cả người không phải dân Huế gốc)! Tuy nhiên sự đố kỵ, ghét bỏ, ruồng rẩy nếu có thì chỉ là của một số quan chức “chính trị” nào đó nặng quan điểm bảo thủ giáo điều ấu trỉ (trong đó không thể không nhắc đến vai trò của Giám đốc Sở VHTT lúc ấy cũng là một nhạc sĩ Huế đàn anh nổi tiếng – cố nhạc sĩ Trần Hoàn) chứ đâu phải toàn dân Huế? Cần nhắc đến giai thoại sau khi Trần Hoàn ra Bắc, năm 1986 Trịnh mới “dám” quay về lại, được mời lên sân khấu trình diễn thì lại chỉ xin hát độc một bài duy nhất “Em là hoa hồng nhỏ” gọi là “phi chính trị” rồi thôi làm mọi người ngỡ ngàng. Rõ ràng “sợ” Huế – Huế của cách mạng - quá rồi! Xét cho cùng việc bỏ Huế ra đi – sau khi đã trở về với đầy thiện chí - là nhằm đi tìm con đường “tự cứu” hợp lý thôi, “vượt biên” vào TPHCM chứ có phải… qua Mỹ đâu (sau này có dịp đi Mỹ thăm Khánh Ly rồi cũng về đấy thôi)? “Đất lành chim đậu” – ngay trong lãnh thổ một quốc gia tự hào là đã thống nhất kia mà - là quy luật thế thôi. Mặt khác, nên nhớ nhờ được “giải phóng” một lần nữa ở TPHCM mới nở rộ thêm giai đọan sáng tác thứ ba Ca khúc Hòa bình - sau giai đoạn thứ nhất Tình khúc Tuổi trẻ và giai đoạn thứ hai Ca khúc Phản chiến. Lẽ ra Huế thời đó và cả bây giờ phải tự vấn rằng mình đã làm gì để bị chảy máu chất xám tới mức đó mới đúng. Thật buồn cười nếu ngày đó không vì tình yêu Huế mà Trịnh hăm hở vội vã quay về mong làm việc “dựng lại người, dựng lại nhà” để vẫn “cố thủ” ở Sài Gòn thì hẳn sự tình đã khác (trường hợp tình nguyện trở về “dại dột” như vậy cũng đã xảy ra cho nhiều đứa con quê hương khác nữa). Biết đâu lại được Huế tôn vinh lâu rồi! Tại sao Huế cứ để kéo dài tình trạng cố tình bỏ quên mà không chịu tiếp nhận đứa con lưu lạc trở về để cùng làm giàu thêm gia tài của mẹ, gia sản của quê hương? Không phải chỉ kêu gọi hãy “ôm Huế vào lòng” mà chính Huế cần mở rộng vòng tay ôm con cái vào lòng, bây giờ cả những đứa con bỏ nước ra đi cũng được chào đón gọi về kia mà. Điều này mãi đến năm 2011 Huế mới chịu làm, bước đi bước đầu tiên đặt tên Trịnh cho một con đường nhỏ, cụt (600m) mới mở từ cầu Gia Hội men theo một nhánh sông Hương đâm xuống bến đò Cồn (nhìn qua sau lưng cồn Hến) mà lúc chưa đặt tên đã được mệnh danh là “con đường bia bọt” Huế! Dù sao thì cũng có còn hơn không nhưng chưa đủ.

652-Jimmy Phạm
NGƯỜI ANH CỦA TRẺ EM ĐƯỜNG PHỐ
Nhà hoạt động xã hội Việt kiều Uc sinh 1970 tại Sài Gòn. Sống ở TPHCM ( 2011).
Năm 1978 lúc mới 8 tuổi theo gia đình vượt biên qua Uc. Lớn lên vào nghề du lịch nên năm 1996 được một công ty Uc cử về lại VN làm đại diện điều hành du lịch. Trong thời gian làm việc tại TPHCM mới gặp gỡ rồi dần dà quan tâm đến số phận của trẻ em đường phố lang thang cơ nhỡ rất dễ rơi vào cạm bẫy tệ nạn, từ đó quyết tâm làm một cái gì đó để giúp đỡ các em. Thế là nghỉ việc, bỏ nghề du lịch rồi vay gia đình một món tiền lớn để mở một cửa hàng làm bánh, bán bánh tại TPHCM qua đó thu nhận các em lang thang bụi đời vào nuôi dưỡng, dạy nghề. Ban đầu tập trung vào nghề làm bánh, sau đó từ từ mở rộng ra nghề phục vụ nhà hàng, khách sạn. Từ một cửa hàng phát triển thành một trung tâm dạy nghề mang tên KOTO (“Know one, Teach one” nghĩa là một người học nghề dạy lại cho một người khác) mở nhiều khóa học miễn phí – cả dạy nghề lẫn dạy văn hóa và tiếng Anh - cho các em từ TPHCM ra đến Hà Nội. Đến nay bằng cách đó đã đào tạo cho hơn 300 em có nghề làm dịch vụ khách sạn (có em được tín nhiệm đưa qua làm khách sạn cả ở Macau, Dubai) tự nuôi sống bản thân trở thành người lương thiện trong xã hội. Xem như đó là phần thưởng lớn cho mình: “Các em được đào tạo quay lại trả ơn tôi bằng cách làm việc tốt hơn, làm gương cho những đứa trẻ khác mới vào nghề.” Đầu năm 2011 đã được tổ chức Diễn đàn Kinh tế thế giới trao tặng giải thưởng Nhà lãnh đạo trẻ toàn cầu: “Tôi từng được tặng nhiều giải thưởng nhưng với tư cách người Uc, lần này với tư cách người VN tôi thấy vinh dự hơn gấp bội.”

653 - Nguyễn Hữu Đính
BỐN LẦN THOÁT CHẾT
Việt kiều Canada sinh 1937 tại Nam Định. Sống ở Canada (2005).
Năm 1954 theo gia đình di cư vào Nam. Lớn lên học ĐH Luật ra trường về làm tòa án ở Bến Tre. Rồi bị gọi nhập ngũ vào trường bộ binh Thủ Đức, tốt nghiệp chuyển về làm hành chánh ở Trung tâm Huấn luyện cán bộ Vũng Tàu. Gặp và lấy vợ tại đây năm 1972, vợ lai Pháp cũng quê Nam Định làm giáo viên. Trước biến cố 30.4.75 đã chuẩn bị vé máy bay cho cả gia đình (đã có một con và vợ đang mang thai con thứ hai) đi Pháp nhưng giờ chót vợï bị kẹt ở Vũng Tàu không về kịp, không nỡ bỏ đi một mình nên đành bỏ vé không đi. Nhưng chấp nhận ở lại trong tình hình tinh thần cực kỳ khủng hoảng lo sợ bị cộng sản “xử”, vì thế có ý định tự tử bằng cách xin bạn bè thuốc ngủ thủ sẵn. Viết sẵn một lá thư trăng trối để lại cho vợ con trước khi định tự tử nhưng cuối cùng kịp nghĩ lại không muốn làm vợ con đau khổ lại phải một mình gánh vác trách nhiệm gia đình nên thôi. Sau đó đi cải tạo qua 4 nơi TPHCM, Đồng Nai, Bình Thuận và cả Phú Quốc. Trong thời gian nằm tù Phú Quốc lại sinh chán đời tuyệt vọng muốn tự tử lần thứ hai. Chuẩn bị sẵn một sợi dây dù chờ nửa đêm lén đi ra ngoài định treo cổ thì gặp cán bộ đi tuần nên đành tháo lui rồi bỏ luôn ý định chết chóc thấy cũng vô ích thôi. Đi cải tạo chỉ 3 năm thì được cho về do bản thân chỉ là sĩ quan hành chánh cấp thấp. Về còn kịp nhìn mặt bố qua đời, còn một người anh thì mất trong trại cải tạo. Bắt đầu tính chuyện vượt biên song 5 lần đi đều không thành, mất cả khối tiền và vàng dành dụm từ trước. Trong số này có 2 lần thoát chết thật ly kỳ mà may mắn. Lần đầu đi từ Vũng Tàu trong lúc ngồi trốn chờ tàu thì 2 đứa con còn nhỏ không biết gì cứ khóc rồi cười ré lên khiến chủ tàu sợ bị công an phát hiện mới đuổi cả nhà về không cho đi theo nữa (nhưng không trả lại vàng đã nộp trước). Ai ngờ sau đó tàu ra khơi chở quá tải (khoảng 70 người) gặp sóng lớn lật úp làm chết gần hết trong đó có cả em trai vợ. Lần thứ hai đi theo chuyến do bạn của bà chị họ tổ chức, tuy nhiên trước khi lên tàu chủ tàu còn đòi nộp thêm vàng mà mình không còn gì cả nên bực mình cự lại rồi bỏ về. Tàu vẫn lên đường và… mất tích luôn, 20 năm qua không thấy có ai báo về gì hết. Bà chị họ có chồng đi chuyến đó buồn khổ tới phát điên luôn! Vượt biên bất thành khiến gia sản, tiền bạc tiêu tan hết nên đầu năm 1980 phải đi đạp xích lô kiếm sống vất vả qua ngày. May sao vợ vốn con lai Pháp nên nộp đơn xin đi định cư Pháp được chấp thuận để năm 1983 cả nhà được phép lên đường. Đến Pháp làm công ty hóa chất. Qua năm 1993 xin di dân qua Canada đời sống dễ thở hơn. Từ khi ra đi đã 3 lần quay về quê hương thăm mẹ già (mất năm 2000

654 - Trần Nghi Hoàng
CHIẾN ĐẤU GIA” TRÊN MẠNG
Nhà thơ, nhà nghiên cứu Việt kiều Mỹ sinh 1949 tại Bến Tre. Sống ở Hội An (2011
Vượt biên đến Mỹ sau 75. Trở thành một cây bút trên mạng theo khuynh hướng tự do tư tưởng, phản đối cộng sản nhưng với một quan điểm “độc lập” riêng nhiều khi tỏ vẻ khác người, táo bạo, “chơi trội”. Rất đa năng viết đủ các thể loại thơ, văn, phê bình, chính luận, tiểu luận, nghiên cứu lịch sử, văn học sử, tạp bút, dịch thuật, kịch bản phim, tạp bút…. Lập website, lập tuần báo, lập nhà xuất bản hoạt động rùm beng, sẵn sàng tranh luận, bút chiến ồn ào. Tham gia viết nhiều báo, in nhiều tác phẩm hải ngoại. Thình lình khoảng năm 2007 sau hơn 30 năm lăn lóc trên đất Mỹ đã bất ngờ không kèn không trống rút về “ở ẩn” tại… Hội An tiếp tục “chiến đấu” trên mạng! 655 - Trần Thị Hường MẠNH HƠN BOM ĐẠN hay LIỆT SĨ SỐNG LẠI 29 Cán bộ về hưu sinh 1942 tại Bình Dương. Sống ở Bình Dương (2004). Tham gia đánh Mỹ từ những năm 1960, đã có lời thề nguyền với người yêu bộ đội cũng là bạn hàng xóm. Năm 1968 được tin người yêu tử trận mất xác trong một trận đánh ở Lái Thiêu, từ đó càng nung nấu chí căm hờn đánh Mỹ trả thù. Chiến đấu nổi tiếng “cô Hai Hường” phụ nữ mà làm đến chức trưởng công an huyện. Trong cuộc đời riêng vẫn sống độc thân thờ người yêu, có ai muốn hỏi cưới thì trả lời chờ người yêu “về báo mộng chấp nhận”! Sau khi hòa bình lập lại, năm 1976 bất ngờ người yêu Phạm Văn Liên tưởng đã chết ấy trở về từ miền Bắc nhưng trong một thân xác bệnh hoạn tàn tạ bị liệt nửa người do vết thương chiến tranh ở cột sống. Thì ra trong trận đánh kể trên anh bị một mảnh đạn pháo găm vào cột sống nhưng không chết mà được đồng đội cứu sống rồi đưa về miền Bắc chữa trị. Được chẩn đoán thương binh 1/4 mất sức 91%. Nhưng không dám liên lạc về báo cho người yêu biết vì thấy mình đã thành người tàn phế rồi, đến khi dứt chiến tranh được cho ra viện nên đành phải quay lại quê hương định tìm nơi nương náu với cha mẹ già. Tuy nhiên người yêu nữ công an thì vẫn một lòng một dạ thủy chung với mối tình đầu trăm năm khắc cốt ghi tâm nên mặc sự can gián của ngườøi khác vẫn tự nguyện đứng ra xin được “cưới chồng” kể cả biết rằng chồng bệnh như vậy rất khó có con. Người thương binh mặc cảm không dám nhận mối ân tình nên định nhờ người em đang đêm “trốn” người yêu ra bến xe về lại miền Bắc nhưng cuối cùng cũng đành chịu thua trướùc tấm lòng son sắt giữ anh lại “người ơi người ở đừng về”. Đám cưới được cử hành cảm động bắt đầu một quảng đời người vợ một mình lo hết mọi chuyện vừa tiếp tục làm nhiệm vụ công an vừa tranh thủ thì giờ rảnh nuôi heo, trồng cao su trồng điều tăng thu nhập nuôi chồng bệnh dai dẳng kéo dài. Dù bản thân mình cũng mắc bệnh tim cộng thêm chứng khó ngủ. May sao trời ngó lại, vậy mà cũng sinh được 2 con một trai một gái có nếp có tẻ như ai đem lại nụ cười hạnh phúc dẫu có hơi muộn màng cho hai phận người mới thoát khỏi khói lửa chiến tranh: “Bom đạn có thể giết chóc, đất có thể cằn cỗi nhưng niềm tin và tình yêu con người mạnh mẽ hơn tất cả. Nhờ nó mà chúng tôi mới có được ngày hôm nay

656 - Triều Uyên Phượng
NHÀ THƠ BÁN VÉ SỐ
Nhà thơ sinh khoảng 1944 tại Cần Thơ. Sống ở Bình Phước (2011).
Trước 75 làm sở Mỹ ở Cần Thơ đồng thời chuyên làm thơ tình lãng mạn bay bướm cho lứa tuổi học trò đúng như bút danh rất đẹp của mình dù thực tế ngoại hình trái ngược hẳn lại cận thị đến 16 độ. Sau 75 thất nghiệp tan vỡ tất cả mọi ảo tưởng phải lên TPHCM ngồi bán vé số lề đường. Đã vậy còn sống chung với một phụ nữ thuộc loại “mẹ mìn” ma chê quỷ hờn dữ dằn bậc nhất, làm được bao nhiêu tiền – hoặc bạn bè thương cảm giúp đỡ - đều bị “bóc lột” hết trần thân! Tuy nhiên nhà thơ “trên mây” buôn bán kiểu đó làm sao sống nổi nên cuối cùng cả hai dắt díu nhau về vùng xa vùng sâu ở tận Bình Phước tìm vào tá túc trong một nữ tu viện có người thân ở đó. Sống không ra sống, bản thân mắc bệnh già, vợ thì gần như mù luôn rồi. Chỉ còn cách lâu lâu về TPHCM nhờ anh em bạn bè cũ giúp đỡ tiền bạc được chút nào hay chút đó. Bất ngờ năm 2007 thấùy xuất hiện trở lại ở TPHCM chạy vạy xin làm thủ tục đi Mỹ theo diện bổ sung mới nhất (nhờ trước kia có làm sở Mỹ) song cái phao cuối cùng này cũng tuột khỏi tầm tay bởi nay gần như đã quên hết… tiếng Anh rồi!

657 - Trịnh Công Thu
CỔ ĐỘNG VIÊN BÓNG ĐÁ SỐ 1 ĐÀ NẴNG
Thương binh sinh1944 tại Quảng Nam. Sống ở Đà Nẵng (2009).
Từ năm 16 tuổi đã vào bộ đội làm lính đặc công. Đến Chiến dịch Hồ Chí Minh là đại úy đặc công tham gia đánh sân bay Biên Hòa thì bị bắn trúng cột sống phải trải qua 5 năm nằm viện từ TPHCM ra tới Hà Nội. Di chứng làm liệt hẳn chân trái, co rút 2 tay, người khòm xuống. Không chỉ thế, gia đình lại lâm vào cảnh bi thương khi con trai thứ hai do hậu quả CĐDC từ khi sinh ra đã mắc bệnh câm điếc, sau đó may mắn lấy được vợ thì sinh cháu gái đầu lòng được một tuần cũng qua đời do chứng không có cột sống. May mà mình còn có niềm an ủi nhỏ với đời: Niềm vui bóng đá do từ hồi còn là bộ đội đã rất mê đá banh từng là một chân sút cừ khôi. Nhưng nay liệt chân phải chống nạn lấy gì đá đây? May sao khi được đưa về chữa bệnh tại quân y viện ở Đà Nẵng vốn nằm gần sân Chi Lăng nên có cơ hội nhắc nhở tìm lại niềm vui xưa. Bèn tập tễnh chống nạng mỗi ngày ra trước cửa sân Chi Lăng nổi tiếng là “diễn đàn thường trựïc” về đội Đà Nẵng (xưa là đội Quảng Nam – Đà Nẵng) hóng chuyện bóng đá với mọi người. Từ đó dần dà trở thành là thành viên “không thể thiếu” của CLB Cổ động viên Đà Nẵng, là fan nhiệt tình quen thuộc của đội này lẫn người hâm mộ. Suốt 17 năm qua đã kiên trì chống nạng lên tàu lửa, xe đò đi theo ủng hộ đội trên từng cây số qua nhiều tỉnh thành dù có khi “lâm trận” đang xem nửa chừng đột ngột lên cơn đau thần kinh tọa khiến muốn gục xuống ngất luôn tại chỗ! Là một trong số ít người có vinh dự được “chạm” vào Cúp VĐQG hai lần Đà Nẵng đăng quang năm 1989 và 2009. Nay đã lớn tuổi yếu sức phải ngồi xe lăn nhưng là một chiếc xe lăn đặc biệt duy nhất cả nước toàn xe sơn màu da cam là màu áo đội Đà Nẵng với trước xe tấm bảng đề “Lê Huỳnh Đức Vô địch” (HLV đội Đà Nẵng) và sau xe một tấm bảng khác “Đà Nẵng Vô địch”. Với lời thề son sắt đúng tác phong một người lính năm nào: “Ngày nào tôi còn khoẻ là còn đi cổ động đội bóng, đến khi nào kiệt sức thì thôi.”

658 - Trịnh Hữu Phước
CHUYÊN GIA NASA SUÝT BỎ VƯỢT BIÊN
Nhà khoa học Việt kiều Mỹ sinh 1962 tại Bạc Liêu. Sống ở Mỹ (2011).
Năm 1979 lúc 16 tuổi học lớp 11 theo gia đình lên tàu vượt biên từ Cà Mau (lúc đó cùng Bạc Liêu đều thuộc tỉnh Minh Hải). Nhưng phút chót chỉ mình lên được tàu còn cả gia đình đều rớt lại, lo quá nên đang khi tàu đã rời bến mới có ý định nhảy xuống biển bơi lại vào bờ tìm về với cha mẹ anh em. Chủ tàu thấy vậy sợ nội vụ vỡ lở sẽ bị công an bắt cả tàu nên vội can ngăn hứa khi qua đến nước ngoài sẽ giúp bảo bọc cho. Tuy nhiên trên đường đi tàu bị hải tặc cướp sạch, chủ tàu trắng tay theo nên khi cập bến trại tị nạn trên đảo Galang của Indonesia thì mạnh ai nấy tìm cách kiếm sống mà tồn tại. Thế là phải vào rừng chặt cây mang về trại bán cho dân vượt biên làm củi làm giườøng, kiếm mối đi bán bánh mì trong trại qua ngày… May sao trong thời gian này gặp được một cô gái bạn học cũ cùng quê vượt biên trước qua đây hứa đến Mỹ có người thân sẽ giúp đỡ. Vì thế khi cô qua Mỹ trước đã nhờ một giáo sư Mỹ nhận anh bạn học làm con nuôi bảo lãnh qua theo. Từ đó lao vào học đêm học ngày, “học gấp 10 lần dân Mỹ” chuyên ngành công nghệ vũ trụ. Năm 1985 lấy bằng kỹ sư, năm 1987 bằng cao học và được NASA cơ quan hàng không vũ trụ Mỹ tuyển dụng vào làm chuyêngia. Tiếp tục học lên lấy bằng tiến sĩ năm 2004. Năm 2010 trở thành chuyên gia cao cấp NASA làm trưởng nhóm nghiên cứu và chế tạo động cơ tên lửa đẩy thế hệ mới chuẩn bị đưa vào sử dụng trong dự án thám hiểm mặt trăng sắp tới. Là một trong số khoảng 7 nhà khoa học gốc Việt trong tổng số 7.500 người làm việc tại Trung tâm Alabama của NASA. Lấy vợ chính là cô bạn học ân nhân cũ sinh được 3 con gái (vợ cũng làm trung tâm NASA kể trên).

659 - Trịnh Kế Cổn
TRUY TÌM LÝ LỊCH HÀI CỐT LIỆT SĨ VÔ DANH
Công chức về hưu còn có tên Hoàng Mạnh Tùng sinh 1929 tại Hưng Yên. Sống ở TPHCM (2009).
Nguyên là bộ đội thời kháng Pháp sau chuyển qua làm việc ở Vụ Bảo tồn – Bảo tàng thuộc Bộ Văn hóa (cũ). Sau khi về hưu năm 1993 ở TPHCM, với kinh nghiệm chuyên ngành này đã lao vào cuộc đối chiếu hồ sơ, điều tra, nghiên cứu về lý lịch các bộ hài cốt liệt sĩ hy sinh tại nhà tù Phú Quốc, nơi từng giam giữ hơn 50.000 cán bộ cách mạng trong đó trên 4.000 người đã bỏ mình. Để tìm thêm thông tin truy cứu còn tìm về tận quê hương lịệt sĩ từ Nam ra Bắc để xác minh tư liệu. Từ đó đã giúp tỉnh Kiên Giang xác định được thông tin khá chi tiết (tên tuổi, quê quán, nơi bị bắt, ngày bị bắt, ngày hy sinh…) cho 113 bộ hài cốt liệt sĩ nhà tù Phú Quốc). Chẳng những thế còn về tận quê liệt sĩ đưa tin hoặc thông tin qua báo đài cho gia đình liệt sĩ biết để đi thăm. Nếu vì hoàn cảnh khó khăn họ không đi được thì chụp ảnh mộ gửi về. Đã 80 tuổi vẫn chưa ngưng cuộc chiến mới này đối với người cựu binh lão thành vì “Tôi biết khả năng của mình có hạn không thể tìm ra thật nhiều danh tính cho những ngôi mộ liệt sĩ nhưng tôi nguyện làm hết trách nhiệm từ trái tim mình… Ở đâu đó vẫn còn hàng ngàn liệt sĩmà thân thể bị vùi lấp dưới lòng đất và những người thân của họ cứ mòn mỏi đợi chờ trong nước mắt, vô vọng suốt mấy chục năm qua. Cứ nghĩ đến điều đó, tôi không thể cầm lòng được…”

660 - Trung Dung
NGƯỜI GIÀU NHẤT
Doanh nhân Việt kiều Mỹ sinh 1967 tại VN. Sống ở Mỹ (2011).
Sau 75 đã 2 lần vượt biên thất bại, lần thứ ba đến được trại tỵ nạn ở một năm rồi qua qua Mỹ năm 1984. Lúc đó trong tay chỉ vỏn vẹn có… 2 USD nhưng 15 năm sau đã nắm trong tay gia tài khoảng hơn 1,8 tỉ USD! Nhờ tập trung học ngành toán và tin học đưa vào ứng dụng thực tế làm phần mềm, trở thành tên tuổi lớn ở Thung lũng Silicon trung tâm ngành điện toán tiên tiến của nước Mỹ. Sau đó còn mua đi bán lại các công ty… Với bí quyết: “Phải ý thức thật rõ là không có gì chắc ăn được. Nhưng phải chấp nhận thách thức cho mình và không nên sợ hãi. Phải hiểu rằng không mấy người có được cơ hội như mình và đây là điều không nên bỏ qua.” Đã về nước tìm cơ hội hợp tác phát triển làm ăn. (Còn tiếp)

VỀ LÀM MÌNH ĐI - ĐÔNG HÀ

Minh họa :TRẦN Ngọc Sinh

14 đứa ra trường đúng 15 năm. Toàn con gái. Buổi chia tay đầy nước mắt tưởng chừng như ngàn đời ngàn kiếp không gặp lại. Thế mà vừa rời thị xã lại gặp nhau cái độp ngay ở Huế. Lại thuê chung phòng ở ríu rít như chim.


Hồi này không khóc khi chia xa. Mỗi đứa tự tách bầy khi gặp con chim trống đến cúc cu cù rủ. Không đứa nào hỏi đứa nào. Cũng không cần giải thích thanh minh. Chỉ có đôi khi quặn thắt lên một chút vì đứa này đứa kia trắc trở trong chuyện tình. Nhưng tuổi trẻ giàu lòng tin yêu, hết chuyến yêu này sang bờ yêu khác. Lần chia tay thứ hai xao xác hơn. Mỗi đứa bôn ba một nơi. Không kịp thời gian tụ tập nhau để khóc như hồi đó.


14 đứa như 14 hột giống, gieo mỗi phương một cây. Chỉ có quê nhà là cụm lại đầy đủ đếm một bàn tay. Mà cũng ít khi gặp nhau. Lúc này yêu không từ bờ này chuyến khác nữa. Yêu để lấy chồng. Nên đứa nào đứa nấy hối hả hơn xưa. Cũng không kịp thời gian gặp nhau mà khóc.

Năm thứ 15 lại ríu rít như chim. Chỉ bằng một lời hẹn.

Không đủ 14 đứa. Nhưng vẫn xem như trọn vẹn bởi buổi này có đủ thủ lĩnh quân sư quân ba hàng bốn dãy. Kéo nhau vào nhà hàng thường ngày vẫn đến cùng mọi người ở cơ quan. Chủ quán ngó ra khách nào cũng quen nhưng hôm nay sao bỗng đi chung với nhau hóa lạ. Ngác ngơ ngoác miệng ra cười rồi vồn vã kéo lên lầu.

Thức ăn đồ uống dọn ra. Nhìn quanh chỉ toàn nước ngọt!

Thủ lĩnh khoát tay dẹp ngang. Chủ quán đâu cho két Heineken.

Tức thì rộ lên ừ ken ừ ken. Lâu lắm mới gặp nhau, không say không về.


Nói lâu lắm nhưng kỳ thực thông tin mỗi đứa đều nắm chặt trong tay. Thời buổi Internet lan nhanh như điện, đứa nào có chuyện chi, có giấu trong sơn cùng thủy tận cũng mò ra. Huống chi ba chuyện lắt nhắt đàn bà.


Vẫn giọng thủ lĩnh cao hơn cả. Con này chân dài ngồi cạnh thùng bia, chịu khó làm tiếp viên nghe. Cười rộ lên khiến bàn bên ngoái nhìn. Giật mình, chết cha, không khéo phụ huynh lớp tao mày ạ. Kệ đi, bỏ qua đi. Coi như hôm này mày không làm cô đi. Mày làm mày bữa đi. Mất mát gì đâu mà lo. Ừ há! Bữa nay tao về làm tao, chắc không can chi hỉ!


Về làm mình đi.

Về làm mình, thủ lĩnh ngồi thừ người ra. Lâu quá rồi chúng mày ạ. Lâu rồi tao mới được làm thủ lĩnh lại nè. Tự bữa cuối cùng với tụi mày xong tao đóng nhiều vai. Vai nào cũng trọn. Tao diễn bài con ngoan. Ra trường, đi làm, lấy chồng. Từ bấy đến nay diễn vai vợ hiền dâu thảo.


Cả bọn lại nhao nhao. Vậy mày hạnh phúc rồi. Ðời này, đứng núi này trông núi nọ là té nhào nghen cưng.

Thủ lĩnh rớt nước mắt. Tao đóng toàn vai hạnh phúc. Nhưng sao hạnh phúc lại có màu buồn hả chúng mày?

Năm xưa khi học đến bài thơ về hạnh phúc vẫn nhớ câu thơ về mất mát, nhưng mất mát cỡ nào cũng có màu hồng.

Giờ có mất gì đâu mà sao mày lại khóc.

Thủ lĩnh cười nhiêm nham trong nước mắt. Ờ há. Có mất gì đâu. Tóc hết xanh thì nhuộm tím nhuộm vàng. Mắt môi không còn long lanh thì tô son điểm phấn. Nhan sắc e chừng muôn phần lộng lẫy hơn xưa.

Thủ lĩnh kể chuyện chị thỏ bông đi lạc tình cờ đọc đâu đó. Chuyện rằng chị thỏ bông đi lạc không phải vì không biết đường về. Chỉ là chị biết rằng anh thỏ bông không cần đi tìm chị, bởi tin chắc chị khắc sẽ tự về đến nhà, còn mang theo cà rốt cho anh. Anh thỏ bông không hề biết khi về đến nhà, chị thỏ bông đã kịp ghé ngang cùng anh thỏ trắng, rồi tạt dọc với thỏ nâu.


Thủ lĩnh ngừng kể. Hỏi trống không: Vậy là mất hay được? Có mất thì phải làm sao?

Tất nhiên như 15 năm trước, câu hỏi ấy sẽ dành cho quân sư. Quân sư ngồi khều khều miếng thịt gà, giả vờ gặm xương để khỏi trả lời câu cắc cớ kia. Câu hỏi 15 năm trước của thủ lĩnh dành cho quân sư đơn giản hơn: cô bé quàng khăn đỏ phải làm gì khi gặp chó sói? Câu trả lời tất nhiên là không được vào rừng. Bây giờ chị thỏ bông đã vào rừng, đã ra khỏi rừng. Hỏi nữa làm chi?

Ăn nhậu xong vẫn chưa hết ngày hò hẹn. Cả bọn kéo nhau vào quán cà phê. Lục tục vòng quanh thế nào lại về chỗ cũ. Chỗ này khi mình đến tóc còn chấm ngang vai, nhớ không? Giờ đứa nào cũng xù tung như chim sẻ mẹ.

Quân sư châm điếu thuốc. Từng vòng khói nhả quanh lơ lửng trôi một hồi rồi quay về lòng vòng trước mặt mấy người khách cắm mặt bên laptop tận dụng chút thời gian ít ỏi làm việc công. Chị chủ quán nhìn cả bọn cười. Giai nhân ơi cho bọn này giang hồ chút nghe. Dòm cái biển “no smoking” rồi, có gì chút nữa bọn này chịu phạt. Nhìn cái cười ngót nghét 50 còn diễm lệ của chị chủ mà lòng rưng rưng.

Bàn bên ồn ào. Mấy người khách khó chịu hắt hơi đánh hắng. Mấy đứa con gái (trong vỏ đàn bà) dường như không còn thấy thế giới có thêm ai, tha hồ giành nhau ngôn từ mà diễn thuyết. Thủ lĩnh tất nhiên vẫn còn giữ vai trò, trông chừng mỗi giờ thêm mỗi vững, như xưa đã thống lĩnh suốt ba năm ròng, tuyên bố hùng hồn. Kệ đi bây, 15 năm mới có một ngày. Bữa nay tao nhất quyết chỉ còn làm tao thôi, chúng mày ạ.


Quân sư vẫn ngồi im cười cười ngó mây trời qua khói thuốc. Khúc này năm xưa. Mưa lâm thâm. Mùa xuân của tuổi dại thì đẹp vô cùng. Quân sư cùng chàng ôm bó hoa layơn hái trộm vườn nhà ai rón rén đến ký túc xá tìm thủ lĩnh. Quân sư vừa đi sau lưng vừa ngắm chàng mà lòng không thôi ao ước. Ao ước bao giờ mình được ở vị trí thủ lĩnh như giờ phút này đây... Thì đến tận giờ phút này đây, chàng đã cùng thủ lĩnh làm nên cặp đôi hạnh phúc. Còn quân sư vẫn tiếp tục làm quân sư cho thủ lĩnh, để trả lời những câu hỏi về chị thỏ bông.

ĐH(TTO)

Tình Mơ

Em mở cửa nắng xuân vào trong mắt
Ướm lên môi lên tóc nụ hương tình
Gió mơn man tình thu về phơi phới
Rót trong thơ mật ngọt buổi chiều rơi

Em mở cửa dìu anh vào dệt mộng
Mộng tình thơ ươm kết cùng trời mây
Em mở cửa mời anh vào đi nhé
Ta đan tay ướp ngọt bờ môi nhau

Anh hãy góp ngày thơ vào tình mộng
Để hồn em lịm ngất giữa hoàng hôn
Em sẽ níu thời gian tình say đắm
Khép trong mơ chỉ còn lại chúng mình

Anh mở cửa hồn em chìm say đắm
Anh ghép thơ cho nhạc cuộn vào nhau
Nâng phím tơ dìu đêm vào trong tóc
Em lần cung bậc ngây ngất tình mơ

THƠ TẶNG CÔ GIÁO - HOÀNG LỘC

đã biết rằng yêu nữ sinh rất khổ
nào hay yêu cô giáo lại khổ hơn
ta, trái đất - một đời quay lảo đảo
một đời yêu mà chẳng thể tròn vòng

ai áo trắng của ngày xưa biền biệt
vang trong hồn nỗi nhớ cuối tà bay
để thơ dại tưởng sắc màu chỉ một
trắng không màu là màu trắng không phai

em mùa thu áo vàng, mùa đông áo tím
và mùa xuân cũng trắng nõn sân trường
mỗi sắc áo - mỗi sắc đời lồng lộng
ta bốn mùa sững sốt những trầm luân

một sắc áo một đời không giữ nổi
huống chi em trăm thứ áo, trăm màu
nên yêu nữ sinh khổ chi bằng yêu cô giáo
ta điếng hồn thêm mấy cõi xưa sau...

hoàng lộc

CÂY TRE CỨU NGƯỜI - HOÀNG HẢI VÂN

DÀY ĐẶC NHỮNG VỊ THUỐC

(Bài Hai) Gốc tre già(Trúc thạch) chữa được nhiều bệnh.Ảnh : Ưng Viên

Có quá nhiều các vị thuốc trong một cây tre, từ rễ tre đến gốc tre già, từ măng đến lá, từ mắt đến gai...

Việc dùng tre đặc trị những bệnh nan y cần sự bào chế công phu của thầy thuốc. Trong phạm vi một bài báo, chúng tôi chỉ xin giới thiệu một số phương thuốc trị bệnh hoặc món ăn tốt cho sức khỏe từ tre dễ áp dụng. Măng tre (“trúc tử”) là món ăn khoái khẩu thông dụng của người Việt, nhưng dân ta cứ nghĩ măng tre chỉ được cái là ăn ngon chứ không “bổ béo” gì. Nghĩ như vậy là nhầm to. Ăn măng thường xuyên cực kỳ tốt cho hệ tiêu hóa, hệ tuần hoàn, tim mạch và giải độc. Mứt măng là món quý, được làm bằng măng tre thái mỏng, bản to như sợi mì quảng, cột chùm lại cho vào mật mía nấu sôi, để chừng một tiếng là lấy ra được. Mứt măng tốt cho sức khỏe đến mức ngày xưa ngựa chiến quân đội nhà Nguyễn mỗi tuần được cho ăn một lần. Măng và ruột tre non nấu vịt cùng tương đậu mèo, được gọi là món “Vịt chưng tương truyền chủng”, ăn vào tăng khả năng có con ở người hiếm muộn. Gốc tre già (trúc thạch) chữa được nhiều bệnh - Ảnh: Ưng Viên Măng tre cùng xuyên bá mẫu, tử uyển… dùng trong bài “ôn phế chỉ khái” đặc trị được bệnh viêm amidale, ho. Măng tre phối hợp với xuyên khung, tiếp cốt thảo… cũng là phương “thiện trị thương khẩu bất hiệp” và bỏng nặng. Các thang thuốc “thiện trị” phụ khoa như “Hoàng hoa chỉ thống”, “Hoàng hoa bảo sản”, “Hoàng hoa dương xuân”… đều có măng tre. Măng tre vừa nhú gọi là “trúc nữ”, là món ăn tuyệt vời cho nữ giới. Dùng “trúc nữ” hầm với dương nhục (thịt dê) hoặc lao nhục tử (thịt bê), phụ nữ ăn vào phơi phới lòng xuân, rất tốt cho tâm sinh lý. Trong ẩm thực truyền thống không chỉ có măng mới ăn được mà tre cũng có thể ăn tốt. Cơm lam không chỉ là món ăn lạ miệng, nó cũng là món ăn chữa bệnh. Ăn cơm lam khỏe người hơn cơm thường và bài trừ được lam chướng, là do ruột ống tre tiết ra một chất gọi là “trúc nhự” ngấm vào cơm. “Trúc nhự” có tác dụng “điều quân khí mạch, điệu huyết dưỡng vệ”, làm kinh mạch điều hòa, khí huyết thông suốt, da dẻ tươi tắn. Dùng ống tre làm cơm lam nếu dùng 1 lần sẽ phí phạm, mà phải sử dụng đến lần thứ 4 mới thôi. Sau khi dùng đến lần thứ 4, cái ruột của ống tre cũng không được bỏ, nó chính là “trúc muội”, rất quý. Lấy một phần ba lớp ruột ống tre này, đem cài vào dưới đáy hoặc phía trên lọ mắm, cũng có thể sắp dưới đáy nồi kho cá. Ăn thứ mắm và cá có “trúc muội” sẽ làm cơ thể khỏe mạnh, không bao giờ bị bệnh đường ruột. Do đó chớ nên coi thường cái ống tre. Bánh kẹo để trong ống tre sẽ thơm ngon hơn. Dầu phộng sống đựng trong ống tre 1 tuần hoặc lâu hơn trước khi đem dùng sẽ ngon hơn, trợ tiêu hóa và chữa được bệnh viêm amidale. Nước uống đựng trong ống tre cũng tốt hơn đựng trong các thứ bình khác. Đừng tưởng cái gai tre chỉ dùng mỗi một việc là... lể ốc. Nó là “trúc thích”, một vị thuốc “quy tỳ bình vị, thiện trị tiện đường” (chữa bệnh tiểu đường), đồng thời tăng cường độ bền bỉ của men ruột. Lấy chùm gai tre nướng sơ qua, hấp vào nồi xôi (hoặc cơm), dịch gai tre sẽ “thăng hoa” xuống làm cho xôi trở nên mướt rượt, ăn rất thơm ngon, lại chữa được bệnh. Hồi nhỏ tôi thường thấy người dân quê hứng sương đọng lên lá tre để nhỏ mắt cho trẻ con bị đỏ mắt, hỏi ông Ưng Viên việc này có phải chỉ là việc “làm phép” không, ông bảo nó là “Thái dương thủy nguyệt lộ” đấy. Đó là những giọt sương đọng trên lá tre qua một đêm trăng. Không phải người ta “làm phép” đâu, trong những giọt sương này có những phân tử li ti của lá tre, chính nó là thuốc chữa đau mắt. Còn những đêm trăng thường là những đêm trong lành, không có chướng khí lẩn vào. Sương mùa xuân đọng dọc thân tre cũng là thuốc, gọi là “Trúc lộ”, có thể dùng bào chế thuốc nhỏ mắt và chữa viêm họng. Ở quê tôi, những gốc tre già thỉnh thoảng được đào lên phơi khô làm… củi đun, không hề biết nó là “trúc thạch”, một vị thuốc quý (khi ngâm bùn biến thành “trúc nịch” chế ra “Phùng ma tán” nói ở phần trước). Đó là đoạn gốc tre già sau khi cây tre bị đốn, chưa chết hẳn mà vẫn còn lốm đốm xanh. Đối với tre thường, “trúc thạch” là đoạn nằm sát đất, nhưng đối với cây tre trổ hoa thì toàn thân là “trúc thạch”. Trong “trúc thạch” có những hạt xoắn nằm trong mắt tre, gọi là “trúc tạo”. “Trúc tạo” dùng làm gia vị ăn uống, trị được chứng hơi thở hôi hám và ung xỉ (hỏng răng), đồng thời dùng làm chế phẩm làm đẹp cho nữ giới (sẽ nói ở phần sau). Chưa hết, trong gốc tre già còn có “trúc bội”, đó là cái mắt nằm dưới mặt đất. “Trúc bội” được dùng để bào chế thuốc trị chứng tê mỏi ống xương chân cho phụ nữ, kể cả khi chân nặng như chì với gót chân đau nhức không đi đứng được. Nó còn trị được bệnh cho người già mông nặng, đi đứng cử động khó khăn; trị viêm tuyến tiền liệt và uất nhiệt bí tiểu tiện. “Trúc bội” còn dùng chữa các bệnh phụ khoa và bổ khí huyết (bổ hơn đương quy), đồng thời còn có tác dụng “phá huyết khối” (làm tan huyết đóng khối do chấn thương). Trên thân cây tre, giữa hai lóng là đoạn có mắt tre. Trong khi phát triển, thỉnh thoảng cây tre bị khựng lại, đoạn có mắt trên sẽ vẹo một chút và ra rễ xung quanh. Đoạn này gọi là “trúc hàm” (hoặc “trúc võng”), là một vị thuốc. Nó có tác dụng “cố thận, thanh vị, dưỡng tâm, tả can”, chữa được bệnh tụ huyết, loét dạ dày, trào ngược dịch vị, làm cho mạch máu gan thông suốt. Những mắt tre bị hỏng (thường do kiến đục), dân gian gọi là tre mắt kiến. Chỗ mắt hỏng này đọng nước gọi là “trúc hư”, dùng bào chế thuốc nhỏ mắt, còn gọi là “trúc hoàng lâu”. Những mắt tre có gai chùm gọi là “trúc thần”, dùng bào chế thuốc trị phụ khoa, những biến chứng do phá, sẩy thai; các chứng đau nhức trong ống xương và toàn thân. Nếu là mắt tre non thì gọi là “trúc nha”, dùng bào chế thuốc trị bệnh ngoài da. Đặc biệt, “trúc nha” kết hợp với trầm hương tự nhiên và chè sẽ cho ra một loại mỹ phẩm làm đẹp tự nhiên cho phụ nữ. Trên những lóng tre có các mắt nhỏ xíu viền xung quanh, cái này gọi là “trúc hoành khẩu”. “Trúc hoành khẩu” bào chế với trầm hương tự nhiên, lá và cọng chè, dịch trái ổi, lựu, khế, bưởi, sâm, thành một loại thuốc có thể cứu người hôn mê do đường huyết và huyết áp cao quá mức, đồng thời trị chứng sốc huyết tương “nhũ huyết” rất nguy hiểm đối với bệnh nhân bị bỏng nặng... (còn tiếp)


H H V (TNO)

MƯA KÊNH ĐÔI - NGUYỄN THỊ ÁNH HUỲNH

Sông mưa
Tôi đứng bên này xoè tay
Ướm để biết chừng nào mưa ngớt
Thấy bên kia phớt trắng những nhà
Treo lủ khủ trong màn bong bóng
Thèm được về nơi đó trước khi chiều
Nghe tạnh ráo tiếng ủa à ..mở cửa
Nước yên đứng mà dòng đổi chổ
Kênh một mình sao gọi Đôi
Để khỏi bị cuốn trôi
Buộc chặt mình vào vòng bánh chạy
Nhưng để bắt người đứng lại
Gió ạt ào đuổi theo …
Không gọi được đò ngang
Người làm đò dọc
Chở khẳm một trời
Lẩy bẩy bọt xà bông
Lúc con khóc chào đời
Biết mình vượt qua được biển
Sao bây giờ
Thua trận trước dòng sông…
Mưa sinh nhật tháng 2001

ĐI CHỢ CHỢ XA - NGUYỄN NGỌC TƯ


Lần chiếc xuồng ra khỏi rạp xuồng lúc trời vẫn còn tối mịt, bà già nghe sương nhểu từ những đuôi lá dừa nước xuống vai mình. Con nhỏ ngồi đằng mũi vít vít cây dầm xuống nước quẩy chủm quẩy chủm, âm thanh hớn hở như nó đang hớn hở: bữa nay bà ngoại cho nó đi chợ. Nó sợ bị bỏ lại, nên dậy theo bà già từ ba giờ sáng. Phụ bà nhúng nước mấy bó ngò gai, húng lủi… lạnh móp cả đôi tay. Mùa chướng sờ đâu cũng lạnh, ờ mà thật ra, là cái gió lạnh đang hiện diện cùng khắp, nó sờ mình.
Chếch bên trời còn một mảnh trăng. Xuồng cứ nhắm bên phải trăng mà đi. Bà già chèo gấp rãi, sợ đụng chợ trưa khó bán mua đã đành, tìm một chỗ ngồi cũng khó. Sương thấm ướt cái khăn rằn đội đầu. Con nhỏ nằm ngủ queo rồi, nằm giữa cà vung trầu và buồng chuối chín bói chim ăn mất mấy trái. Vài chiếc xuồng đi chợ sớm khác đuổi kịp nhau, hỏi han râm ran chuyện lúc thóc, mùa màng. Nghe bên kia nói vô bồ được trăm hai mươi giạ mà nhà tới mười miệng ăn, bà già thở dài thương cảm, như đang thương chính mình.
Bà già cảm thấy hơi lạnh dù chèo mệt, người rịn mồ hôi. Người quê, những cơn lạnh đến rồi đi đôi khi không vì gió. Trời hửng thì con nhỏ bị đánh thức bởi tiếng nhạc phát ra từ dãy nhà cất ven sông. Mới đầu thì nhà họ còn thưa, rồi san sát dần, ồn ả sáng lóa dần.
Chợ.
Đây là lần đầu tiên con nhỏ đi chợ bằng đường sông. Nó nhìn phía sau những ngôi nhà chen chúc nhau nhón chân trên nước nghe ngạc nhiên hết sức. Trông chúng lộn xộn, gần gũi, dung dị như như ở một xó quê nào vậy. Có người bưng gàu mên nước ngồi chồm hổm bên thềm rửa mặt. Có trẻ con cởi truồng tắm sáng. Có ông già chống gậy ra cửa sau tựa vào cây gậy ngó mông lung. Cá khô xỏ xâu phơi trên sào quần áo, những giẻ lau đủ màu sắc giắt gần đó, phơ phất như đuổi chim trên ruộng. Những xô chậu, những lu khạp, những cái võng treo xiên xẹo… Đằng lưng của chợ nhìn thân thiện với người quê, con nhỏ thích.
Nhưng cửa sau thì không phải chỗ bán mua, chợ phải là mặt chợ kìa. Chỗ đó lộng lẫy và sáng loáng làm con nhỏ cảm thấy hai bà cháu mình trở nên nhỏ thó và lem luốc. Dãy nhà lầu bên kia đường cao, đến nỗi bóng chúng ôm hết cái chợ chồm hổm đến nửa buổi sáng thì mặt trời mới chạm vào đôi dép cũ đã vá tèm lem của con nhỏ. Nắng lên, đôi dép xấu xí hơn. Không gian tràn ngập thứ ánh sáng như nôn nả dồn đuổi, như xua người ta về với ruộng vườn xanh bóng cây. Ở đây, mọi thứ đều chói gắt lấp lánh. Cả tô hủ tiếu mà đứa trẻ chợ kia ngồi ăn cũng lung linh lạ thường. Con nhỏ cảm thấy mình dòm miệng đứa kia hơi lâu, tự mắc cỡ ngoảnh đi chỗ khác.
Chợ trưa dần. Bà già vẫn còn mười một ốp trầu trong cà vung. Vài chị mang guốc lóc cóc lại, kêu thím ơi coi như chẵn chục đi, tôi mua hết. Con nhỏ lạ lắm, lạ suốt từ sáng giờ. Nó học lớp một trường làng, sự thật mười một không thể là mười được, hai con số ấy khác nhau. Như hồi sáng ngoại nói nải chuối ba trăm đồng, khách nài hai trăm rưỡi đi cho chẵn. Con nhỏ thấy rõ ràng sự chẵn của khách không chẵn chút nào. Nhưng khách đã dợm bước để chứng tỏ mình cái quyền tối thượng của mình: quyền đi chỗ khác, quyền ngoảnh mặt, quyền được đúng. Bà già chịu thua.
Nhưng bà già không cay đắng, quạu quọ… bà ung dung, thanh thản. Từ hồi bằng con nhỏ bà đã theo người lớn đi chợ, đã được dạy rằng người quê không có quyền định giá món hàng mình làm ra. Và giá của những rau những lúa không bao giờ đứng yên, chúng chạy thót tim theo cơn nắng sáng, mưa chiều. Pin đèn không vậy. Cây kim may tay cũng không vậy.
Con nhỏ rồi sẽ phân biệt được thôi, khoai mì và bột ngọt khác nhau không chỉ vì chúng là khoai mì và bột ngọt. Chúng khác xuất thân. Giờ thì bà già dẫn con nhỏ đi ăn hủ tiếu. Chị bán quán vét hết mấy thứ trên bàn thì vừa tròn tô hủ tiếu, dù nước súp đáy nồi sắc mặn như kho. Bà già chỉ nhá gói xôi và ngồi ngó cháu đang ăn ngon lành, tô hủ tiếu đầu đời của nó. Lấp lánh và muốt, đó là cảm giác của nó về tô hủ tiếu, và khi trả tiền nó nhận ra mình vừa ăn nửa cà vung trầu. Biết nói sao, vừa lảo đảo say vừa ràn rụa cay.
Đường xuống bến đậu xuồng xuyên thấu qua lòng một tiệm tạp hóa, bà già nói nhà này hồi trước ở xóm mình, loạn lạc quá mới tản cư ra đây. Hèn chi gặp nhau cứ nghe giòn chuyện xóm làng đồng áng. Hèn chi họ bày hàng hóa lủ khủ lềnh khênh mà không chút dè chừng những khách quê bao bận lên xuống bến, như thể đã thuộc lòng sự ngay thẳng của nhau. Con nhỏ ngẫm ngợi trong lúc chờ bà già loay hoay mua dầu hôi nước mắm, đường mía, ống khói đèn chong, ống chỉ đen … Tất nhiên bà già không quên chai dầu gió bôi cho đỡ nhức đầu và mấy lọ Tế Chứng Thủy trị đau bụng. Tất nhiên con nhỏ không quên đòi mua đôi dép mủ mới. Thấy bà ngoại lúi húi mở kim tây lấy tiền trong túi trái, con nhỏ biết rằng những món trong vườn sáng nay không đủ đổi lấy mấy thứ lặt vặt này. Bà già vừa bù thêm một phần tiền lúa.
Buổi chợ đầu đời mãi mãi ám ảnh con nhỏ, hai mươi tám năm sau khi nó ngồi nhớ lại, vẫn thấy mình đi chợ về te te lấy sách ra ngồi học, bởi không muốn lớn lên trồng trầu và rau húng lủi. Vẫn nhớ trong tô hủ tiếu đầu tiên mà mình được ăn, có dư vị trầu cay xé họng. Và đi bằng xuồng chèo thì chợ của người chợ xa lắm, rất xa, xa…
NNT

GIÁ NHƯ ... - CAO THOẠI CHÂU

Giá Trời đừng hại chúng ta
Đừng sinh ra cái gọi là chia ly
Sinh ra thứ ấy làm gì
Một đường hai ngả đến, đi thật buồn

Người đi nắng gội mưa tuôn
Đá kia cũng thấy chạnh lòng nước non
Giá Trời đừng quá vô tâm
Núi đừng cao vút để sông đừng dài

Giá Trời hiền một chút thôi
Thì sầu thiên cổ đã nguôi dần dần
Có đâu trong cõi nhân sinh
Loay hoay tìm kiếm cái mình vẩn vơ

Giá Trời không nắng không mưa
Bốn mùa đừng có một mùa rét đông
Rừng lao xao, biển mênh mông
Lặng im tiếng sóng trong lòng. Giá như…

Giá như đừng có ngày xưa
Ngày sau đừng có, bây giờ cũng không
Giá như có một bông hồng
Bông hồng chỉ đẹp mà không nói gì

Gió khuya đừng ở xa về
Đừng làm kinh động những gì đang quên
Tình yêu đừng kết thúc buồn
Làm chi phải hoá nên Hòn Vọng Phu!

CTC

CAO HUY KHANH - VN HỒ SƠ HẬU CHIẾN 1975-2011(KÌ 64)


NHỮNG SỐ PHẬN KỲ LẠ

641 - Trần Văn Dược
“VUA RẮN” CỨU NGƯỜI
Quân y sĩ bộ đội sinh 1929 tại Long An – Mất 1988 ở Long An (60 tuổi).
Vốn có nghề gia truyền chữa trị người bị rắn cắn bằng cây thuốc Nam ở vùng Đồng Tháp Mười nên những năm tháng đánh Mỹ càng giúp ông làm giàu thêm kinh nghiệm tay không bắt rắn, tay không lấy nọc rắn để chế tác thuốc chữa bệnh rắn cắn cứu người.

Vì vậy sau 75 đứng ra nhận cải tạo trại lính chế độ cũ thành Trại rắn Đồng Tâm ở Long An nổi tiếng về quy mô nuôi rắn lấy nọc chữa bệnh rắn cắn cho hàng chục ngàn bệnh nhân tứ xứ được tặng cho biệt danh “Thầy Tư Dược”.

Nổi tiếng tới mức có nhiều huyền thoại thêu dệt quanh cuộc đời ông như đúng trưa ngày 30.4.75 cha ông còn gắng gượng chờ gặp ông sau 21 năm xa cách rồi mới nhắm mắt qua đời. Và đến khi ông mất do bệnh nhồi máu cơ tim lại đúng vào năm tuổi Kỷ Tỵ trùng chẵn 60 năm sinh cũng Kỷ Tỵ đều cầm tinh… con rắn, từ đó dân gian đã đồn đại truyền miệng rằng ông sinh nghề tử nghiệp… bị rắn chúa cắn chết!

642 - Trần Văn Hương
VỊ TỔNG THỐNG “Ở LẠI”
Nguyên tổng thống chế độ cũ sinh 1902 tại Vĩnh Long – Mất 1982 ở TPHCM (81 tuổi).
Nguyên là Phó Tổng thống kế nhiệm Nguyễn Văn Thiệu từ chức trong thời gian một tuần lễ trước khi chuyển quyền lại cho Dương Văn Minh ngày 28.4.1975 để vị tổng thống cuối cùng này của chế độ Sài Gòn sau đó quyết định ra lệnh cho quân đội Sài Gòn “hạ vũ khí” đầu hàng cộng sản ngày 30.4.

Khác với ông NV Thiệu lặng lẽ bỏ trốn qua Đài Loan (rồi đến Anh, sau cùng cuối đời ở Mỹ) dù trước đó khi tuyên bố từ chức đã thề rằng sẽ tiếp tục ở lại “chiến đấu phục vụ đất nước” (còn hàm trung tướng bộ binh) hoặc ông DV Minh phải ở lại để làm công việc “bàn giao” với lực lượng cộng sản, ông Trần Văn Hương lúc đó đã 71 tuổi không còn nhiệm vụ gì có thể dễ dàng theo chân người tiền nhiệm để nhanh chân lánh ra nước ngoài. Cả Đại sứ Mỹ lẫn Đại sứ Pháp ở Sài Gòn lúc đó vào ngày 29.4 đều đã đích thân đến gặp ông để mời lên máy bay qua nước nào tùy thích nhưng ông đều cám ơn và… từ chối. Lý do là tuy “biết tình trạng rất nguy hiểm” nhưng ông “đã suy nghĩ và quyết định ở lại với nước tôi… Tôi tình nguyện ở lại để chia sẻ với dân chúng miền Nam…” Quyết định đó hẳn đã làm Đại sứ Mỹ Martin ngạc nhiên tới mức khi từ giã đã quên cả… bắt tay ông cựu tổng thống!

Cả đến sáng 30.4 Đại sứ Martin một lần nữa còn điện thoại đến báo đã dành riêng cho ông TV Hương một máy bay trực thăng sẵn sàng di tản song ông vẫn một mực lắc đầu. Khoảng vài năm sau khi người con trai út vượt biên ra nước ngoài nhắn về đã tổ chức chuẩn bị cho ông vượt biên, ông đã đem chuyện cũ Đại sứ Martin ra kể thay cho câu trả lời với con.

Giữ đúng lời hứa, ông đã ở lại với quê hương một cách nghiêm túc, chấp nhận mỗi ngày đạp xe đạp từ nhà riêng ở trong hẻm đường Phan Thanh Giản (nay là Điện Biên Phủ) đến dinh Thống Nhất tham gia lớp “học tập cấp cao”, sau đó được về nhà tiếp tục cuộc sống bình thường (được cấp phiếu E mua hàng mậu dịch).

Đến năm 1977 được trao trả quyền công dân và nhân dịp này ông đã viết một lá thư đề đạt nguyện vọng lên cấp lãnh đạo chính quyền mới đề nghị cứu xét cho những người đi học tập cải tạo được sớm trở về vì “họ chỉ thừa hành lệnh cấp trên, họ không có tội gì cả”, mong họ được tha về “để sum họp với vợ con, còn lo làm ăn xây dựng đất nước.”

Vốn xuất thân là nhà giáo thấm nhuần lễ nghĩa đạo Nho cổ điển, ông TV Hương từng từ quê Vĩnh Long ra Hà Nội học trường Cao đẳng Sư phạm thời Pháp thuộc, có quen biết một số bạn học sau này là những nhân sĩ, nhà văn hóa văn nghệ nổi tiếng đi theo cộng sản như Nguyễn Khánh Toàn, Hoàng Minh Giám, Phạm Huy Thông. Từ đó qua 2 lần làm thủ tuớng, ông được dân miền Nam biết tiếng qua một số giai thoại kiểu “trà dư tửu hậu” thể hiện đạo đức khí tiết nhà giáo mẫu mực.

Như ông thường thích làm thơ Đường trong đó có một câu được nhiều người tâm đắc do ông sáng tác trong thời gian bị chính quyền Ngô Đình Diệm bắt giam 3 tháng vì tội chống đối chính quyền ủng hộ nhóm đảo chính Nguyễn Chánh Thi, đó là câu “Ngồi buồn gãi háng, giái lăn tăn…” (được in đàng hoàng trong tập thơ “Lao trung lãnh vận” nghĩa là “Những vần thơ lạnh lẽo trong nhà tù”). Đến thời làm thủ tướng cho NV Thiệu (trước khi làm Phó Tổng thống), ông chủ trương chống tham nhũng ban đầu tuyên bố quyết liệt “Đánh rắn phải đập đầu rắn” nhưng càng về sau càng… đuối đành chịu bất lực với thêm một câu tuyên bố để đời nữa là “Diệt hết tham nhũng thì lấy ai… làm việc”!

Trong những ngày cuối đời, ông còn không ngờ có được một niềm hạnh phúc an ủi không ai tin nổi là gặp lại người con trai đầu vốn là một… cựu đại úy bộ đội công binh chiến trường Điện Biên Phủ và nay là kỹ sư đảng viên trở về từ Hà Nội!

Người con tên thật là Trần Văn Dõi vào bộ đội đánh Pháp từ năm 1945 tại Tây Ninh chính là nơi thời đó ông TV Hương đang giữ chức đốc học tỉnh rồi được đưa lên làm Chủ tịch UB Hành chính kháng chiến Tây Ninh khi bắt đầu nổ ra cuộc kháng chiến chống Pháp (nhưng sau đó từ nhiệm bỏ về quê do thấy tình hình lộn xộn quá không quản nổi). Sau đó được đưa ra Bắc cho đi học sĩ quan, vào Đảng rồi tham gia trận Điện Biên Phủ, khi hòa bình lập lại xuất ngũ đi học Đại học Bách khoa tốt nghiệp ra làm ở ngành công nghiệp. Nhưng ít ai biết anh chính là con đầu lòng của ông TV Hương do đã đổi tên lấy họ mẹ là Lưu Vĩnh Châu. Riêng ông TV Hương ở miền Nam thì cứ đinh ninh anh đã chết rồi.

Đến năm 1978 hai cha con mới chính thức gặp mặt và anh con trai đầu này đã đưa vợ con về ở chung nhà để phụng dưỡng cha già lâu nay sống trong cảnh đơn côi (bà vợ đã mất năm 1974).

Ở lại với quê hương, ngoài niềm vui tuổi già sum họp với con cháu đã xa cách 30 năm trời tưởng không còn nữa, ông TV Hương còn niềm an ủi là lúc qua đời vào đúng dịp Tết Nhâm Tuất 1982 thọ 81 tuổi được hỏa táng theo nguyện vọng. Còn được nhiều bà con học trò bạn bè thân hữu cố cựu từ cả hai phía Nam – Bắc đưa tiễn mà người chủ lễ chính là bạn cũ cố GS Nguyễn Văn Chì lúc đó là Chủ tịch UB Mặt trận Tổ quốc TPHCM.

643 - Trần Văn Quy
“NGƯỜI CHA ANH HÙNG”
Thường dân sinh 1892 tại Bến Tre. Sống ở Bến Tre (2001)
Người con duy nhất là du kích đã hy sinh, vợ được phong Bà mẹ VN Anh hùng sau khi qua đời nên chính mình phải đứng ra nhận bằng truy tặng.
Chỉ còn lại một mình vẫn sống mạnh mẽ, 80 tuổi còn đi gánh đất đắp cả nền nhà, hơn 90 tuổi có thể đi bộ 10 – 20km không cần chống gậy, hơn 100 tuổi còn ngồi đan lá dừa nước lợp nhà...
Cuối đời vào sống trong khu nuôi dưỡng người già neo đơn của tỉnh được mọi người tự phong cho là “Người cha Anh hùng”. Tính đến năm 2001 đã 109 tuổi.
644 - Trần Văn Sửu
NHÀ HÀNG NAM BỘ 5 SAO Ở LONDON
Doanh nhân sinh tại Nam bộ. Sống ở Anh (2011).
Cùng vợ vượt biên đến Anh năm 1980.
Hai vợ chồng trải qua nghề làm bếp – từ rửa chén lên phụ bếp đến đầu bếp - 28 năm ở nhiều nhà hàng Châu Á – Trung Quốc, Malaysia, Nhật Bản… - tại thủ đô London.
Năm 2008 hai vợ chồng dành dụm được vốn liếng quyết tâm ra lập nhà hàng riêng chỉ chuyên bán món ăn Nam bộ đặt tên là nhà hàng Miền Tây. Nơi đây có thực đơn 185 món ăn Nam bộ đặc sắc như cá kho tộ, vịt nấu chao, rau muống xào tỏi, canh chua cá lóc, bánh xèo, bún cá…. Cả nước giải khác cũng kiểu Nam rặt như nước rau má, nước mía, trà đá… Là nhà hàng hải ngoại có nhiều món ăn đặc sản Nam bộ nhất. Nguyên liệu chế biến thức ăn đều đặt hàng chỉ 2 ngày sau từ VN máy bay chở qua. Tất cả đều giữ nguyên hương vị, màu sắc Nam bộ 100% chứ không “lai” món ăn Tàu hay Thái như một số nhà hàng Việt hải ngoại khác. Nhân viên phục vụ cũng như làm bếp đều người Việt nhập cư.
kết quả thành công trên cả mong đợi với 95% khách đều nước ngoài, được báo chí Anh cho điểm đạt mức nhà hàng 5 sao.
Từ đó đã khuếch trương thêm một nhà hàng Miền Tây 2. Và dự định giữa năm 2011 thêm một Miền Tây 3 – đều ở London – mà lợi nhuận nơi đây sẽ được dùng vào công tác từ thiện giúp đỡ người nghèo, tất nhiên ưu tiên cho đồng bào mình ở quê nhà.

645 - Trần Văn Tảo
NGƯỜI QUẢN TRANG NGHĨA TRANG QUÂN ĐỘI CHẾ ĐỘ CŨ
Thường dân – Mất 2006 ở TPHCM.
Chỉ là một hạ sĩ quan chế độ cũ nhưng đầu những năm 80 đã tình nguyện tự đứng ra tổ chức một nhóm bạn bè lo cáng đáng công việc chăm lo tảo mộ ở Nghĩa trang Quân đội chế độ cũ ở Biên Hòa suốt một thời gian dài. Dù nghĩa trang này được đặt dưới sự quản lý nghiêm ngặt của đơn vị bộ đội trực thuộc Bộ Quốc phòng chế độ mới.
Còn chụp hình, quay video hình ảnh mộ qua Mỹ cho gia đình thân nhân tử sĩ. Và còn gửi cả tấm bia lớn Chiến sĩ vô danh qua Mỹ (theo đường bộ) lưu giữ.
Tình nguyện làm việc không công như một hội trưởng Hội Thương phế binh VNCH đầu tiên ở trong nước sau 75. Làm vì tâm nguyện “Bây giờ các tướng lãnh, sĩ quan, H.O, học tập cải tạo, con lai, làm sở Mỹ, O.D.P, thuyền nhân ai cũng đi Mỹ hết, chỉ còn lại là các cô nhi quả phụ, các thương phế binh và tử sĩ ở lại có ai lo…”
Đến năm 2009 nghĩa trang trên mới được lệnh bàn giao từ quân đội qua cho tỉnh Bình Dương quản lý, trở thành một nghĩa trang dân sự bình thường cho tất cả mọi người được tự do vào thăm viếng, chăm sóc, tu bổ không phân biệt gì nữa.

646 - Trần Văn Ty
NỐI NHỊP CẦU VIỆT - HÀN
Doanh nhân sinh 1972 tại Khánh Hòa. Sống ở TPHCM (2011).
Năm 1967 mẹ sống chung với một hạ sĩ quan Hàn Quốc trong sư đoàn Bạch Mã đóng quân ở Khánh Hòa, lần lượt sinh được 3 con gồm 2 gái
và một trai đặt tên Trần Văn Tiến lấy theo họ mẹ.
Năm 1973 Hàn Quốc rút quân, người chồng Hàn Quốc cũng về nước để lại một mình mẹ nuôi 3 con.
Sau 75 người mẹ sợ bị liên lụy lấy chồng “Hàn Quốc xâm lược” nên đốt hết giấy tờ liên quan đến người chồng (thay vào đó khai là chồng
chết), đổi tên con Trần Văn Tiến thành Trần Văn Ty rồi đưa các con ra Phú Yên sinh sống để tránh bị nhòm ngó dị nghị.
Lớn lên nuôi hy vọng đi tìm cha theo diện con lai Hàn Quốc nhưng năm 1991 không qua được thủ tục phỏng vấn do không còn hồ sơ giấy tờ
nào để chứng minh cha Hàn Quốc.
Vẫn không mất hy vọng nên vào Sài Gòn đạp xích lô sống qua ngày rồi chuyển qua làm nghề phụ hồ, lượm ve chai. Song song đó tìm cách
liên hệ với các tổ chức từ thiện Hàn Quốc để nhờ trợ giúp học tiếng Hàn, học vi tính, ngoại ngữ. Nhờ đó làm quen được với giới người Hàn Quốc đến làm ăn ở VN để hỏi thăm, truy tìm tông tích người cha song đều không kết quả mà sau này mới biết lý do là vì cả mẹ cũng nhớ… nhầm tên cha viết
không đúng!
Đến năm 1993ù được một doanh nhân Hàn Quốc nhận làm con nuôi chu cấp cho đi học đại học. Năm 1997 tốt nghiệp ĐH Khoa học xã
hội & Nhân văn TPHCM được ông chủ này nhận vào làm công ty.
Năm 2000 khi đã “đủ lông đủ cánh” mới quyết định xin nghỉ việc để một mình bay qua Seoul kiếm việc làm vừa để thuận tiện tiếp tục hành
trình tìm cha. Và may mắn đến năm 2001 thì tìm được cha, một cổ đông trong công ty mình đang làm việc.
Nhưng cuộc gặp gỡ diễn ra trong bao nỗi oái oăm đoạn trường bởi người cha nay đã có vợ con Hàn Quốc khác rồi, lại bệnh tật già yếu do bị
nhiễm CĐDC thời chiến tranh VN nên không thể bảo bọc, hứa hẹn gì với vợ con VN, chỉ biết cúi đầu chảy nước mắt ngậm ngùi nhận lỗi với con trai.
Người con trai cũng không biết làm gì hơn đành quay về quê hương hai bàn tay trắng với niềm an ủi dù sao bây giờ cũng đã một lần được biết mặt
cha.
Nhưng từ đó trong thâm tâm nảy ra một ước vọng là làm sao giúp những người đồng cảnh ngộ như mình tìm được thân nhân Hàn Quốc. Cho
nên về lại VN liền lập một công ty du lịch ở TPHCM chú trọng tập trung vào đối tượng giới du khách Hàn Quốc để bắt liên lạc, đặt mối liên hệ trao
đổi thông tin, giúp đỡ…
Qua đó đã lập được danh sách khoảng 500 trường hợp gia đình Việt – Hàn thất tán, mất liên lạc sau chiến tranh trong đó đã giúp được hơn
40 trường hợp gặp lại nhau. Ngoài ra còn vận động các mạnh thường quân Hàn Quốc cấp học bổng cho con cháu thế hệ con lai Hàn Quốc.
Không chỉ thế, còn viết tập truyện ngắn “Những mảnh đời luân lạc” và tập thơ “Những đứa con lạc loài” (có thể làm thơ bằng cả tiếng Hàn,
bút danh Trần Đại Nhật) giãi bày tâm sự muốn nói lên tiếng nói bảo vệ cho một thế hệ con lai Hàn Quốc “Chúng tôi là con người chứ không phải là
phế liệu chi?n tranh mà người ta dùng xong thì vứt bỏ đi”.

647 - Trần Vũ Mai
CUỘC TÌNH GIỮA HAI CHẾ ĐỘ
Nhà thơ tên thật Vũ Xuân Mai sinh khoảng 1945 tại Thanh Hóa – Mất 1991 ở Hà Nội (47 tuổi).
Tốt nghiệp đại học làm nhà xuất bản ở Hà Nội, năm 1971 tình nguyện đi bộ đội vào Nam chiến đấu ở vùng Khánh Hòa – Phú Yên.
Sau 75 ở lại làm việc tại Hội Văn nghệ Phú Khánh cũ. Là một trong những người mở đầu phong trào làm thơ trường ca thời này.
Trong một chuyến vào TPHCM tình cờ gặp trên xe bus và yêu một cô gái Sài Gòn nhưng không được gia đình cô (gốc Bắc di cư 54) chấp nhận. Vậy nhưng cô vẫn từ bỏ tất cả ra đi theo người tình về Nha Trang rồi chuyển ra Hà Nội.
Tuy nhiên sau đó hạnh phúc đôi lứa không được suông sẻ có lẽ do thời này còn quá nhiều định kiến phân biệt giữa hai hai chế độ đã có quá nhiều món nợ ân oán trong quá khứ. Có lẽ vì thế người chồng rơi vào mặc cảm chán đời xa lánh bạn bè chỉ suốt ngày uống rượu. Trở thành người nát rượu khi mới hơn 40 tuổi tuy vốn không phải là dân nghiện rượu, chỉ mới vài chén đã say:
“ Biết chạm cốc cùng ai trong ý nghĩ
Hỡi anh chàng ra vẻ phớt buồn đau
Biết tìm giữa mắt ai màu tri kỷ
Ta lại buồn như thể sắp vào say…”
Tất cả đưa đến một cái chết bi thương: Trên đường về nhà say rượu thấy đầm sen tưởng là đất bằng cứ thản nhiên bước xuống, chết chìm hai ngày sau người dân chung quanh mới phát hiện. Đám tang còn thê thảm hơn do một em bé kéo xe tang và khách đưa phụ đẩy qua những bờ ruộng.
Chỉ còn niềm an ủi trong quan tài khi chôn xuống “thi thể đầu đặt hướng về phương Nam” – nơi để lại nhiều tác phẩm gắn bó với vùng đất Khu 5, Nha Trang, Cam Ranh - như để kỷ niệm một cuộc tình hiếm có trong buổi giao thời nhiều xung đột phức tạp những năm sau Giải phóng. Một cuộc tình độc đáo nhưng lại không gìn giữ được tới cùng bởi bao mối mâu thuẫn nội tại – và nội tâm - trước thực tế đối kháng đôi miền vẫn còn rất nghiệt ngã.

648 - Trần Xuân Giảng
CỰU BỘ ĐỘI CHỐNG AIDS
Thợ mỏ sinh tại Quảng Ninh. Sống ở Quảng Ninh (2005).
Bộ đội sau 75 xuất ngũ về quê làm thợ mỏ.
Đời sống tạm ổn định lấy vợ sinh con. Nhưng đến khi con khôn lớn thì gặp đại họa 2 con trai và 1 con rể nghiện ma túy dính bệnh AIDS thay nhau chết trong vòng 2 năm.
Khi phát hiện thảm họa đã cố ngăn cản con nhưng không chận đứng nổi. Đến khi con phát bệnh, với nghị lực và bản lĩnh người lính năm xưa đã kiên trì tự tìm tài liệu học về căn bệnh thế kỷ này để tự tay chăm sóc con không ngại lây nhiễm, theo đúng phương pháp tiến bộ qua sự hiểu biết thông cảm, an ủi động viên tránh để con mặc cảm.
Lo cho con yên nghỉ xong xuôi lại quay về tất bật lo nuôi nấng 3 cháu mồ côi…

649 - Trần Xuân Lộc
TÊN TRƯỜNG SƠN, TÊN CHẤT ĐỘC DA CAM
Thường dân sinh 1945 tại Hà Nội. Sống ở Hà Nội (2004).
Bộ đội vào Nam chiến đấu ở Quảng Trị năm 1966. Sau khi xuất ngũ năm 1974 lớn tuổi không học nghề được nên đành phải làm nghề bốc vác.
Lấy vợ muộn năm 1986 nên sinh con muộn đặt tên con trai duy nhất là Trường Sơn để kỷ niệm thời chiến tranh gian khổ. Ai ngờ cái tên đó gắn liền với căn bệnh CĐDC từ mình truyền qua con nay biến thành bệnh động kinh đã hơn 20 tuổi mà đêm nào cũng thức giấc mê muội co giật cứng người nếu không biết cách cứu chữa kịp thời sẽ biến chứng nguy hiểm tính mạng.
Vì thế dù đã gần 60 tuổi suốt đêm phải nằm bên cạnh canh chừng để thức dậy theo mà lo cho con.

650 - Trí Hải
CHẾT TRÊN ĐƯỜNG ĐI LÀM TỪ THIỆN
Nữ tu Phật giáo pháp danh Thích nữ Trí Hải tên thật Công tằng Tôn nữ Phùng Khánh sinh 1938 ở Huế - Mất 2003 tại TPHCM (65 tuổi).
Một con người thông tuệ, tài hoa dòng dõi hoàng tộc nhà Nguyễn từng tham gia phong trào sinh viên Phật tử đấu tranh chống chế độ Diệm những năm 60.
Sau đó du học Pháp trở về quy y đạo Phật làm quản thủ thư viện ĐH Vạn Hạnh – chính là thần tượng “mẫu thân Phùng Khánh” của cố đại thi sĩ Bùi Giáng. Dịch giả 2 cuốn truyện nổi tiếng “Câu chuyện của dòng sông” (tác giả H. Hesse, Đức) và “Bắt trẻ đồng xanh” (J.D.Salinger, Mỹ), đã xuất bản gần 30 tác phẩm viết và dịch đều về chủ đề đạo Phật.
Năm 1984 bị bắt vì liên quan đến hoạt động của một nhóm trí thức Phật giáo chống đối chính quyền mới, ra tòa 1988 bị kết án tù 4 năm rưỡi (nặng nhất là Thích Tuệ Sỹ và Thích Trí Siêu tức Lê Mạnh Thát tử hình sau do quốc tế vận động được giảm xuống còn 20 năm tù).
Sau khi ra tù chuyển hẳn qua hoạt động từ thiện và nghiên cứu, dịch thuật Phật học. Tựa như đã tìm thấy ánh sáng cuối đường hầm cứu rỗi với lý tưởng sống hy sinh bản thân an hòa với chúng sinh: “Đau răng mới biết ý nghĩa của vô ngã… Khi răng không đau thì mình không để ý tới hắn, coi như không có. Khi hắn lên tiếng là có chuyện. Cũng thế, nếu mình vô ngã thì môi trường chung quanh mình sẽ rất dễ chịu. Còn mình lên tiếng “Có tôi đây” thì có chuyện ngay. Bởi vậy muốn lành mạnh thì vô ngã, vô ngã là lành mạnh.”
Thế mà đau thương thay, chính trên con đường từ thiện đó (đi cứu trợ nạn nhân bão lụt Miền Trung từ Bình Thuận trở về TPHCM) đã gặp tai nạn giao thông ở Đồng Nai tử nạn bi thương. Trước đó vài tháng cũng đi cứu trợ bị té ngã chấn thương cột sống, vậy mà mới đỡ được một chút đã vội vã bôn ba lên đường đi cứu nạn cứu người.
Hết lòng đi làm từ thiện mà cũng chết thảm như thế thì ai còn dám làm nữa? Phật ở đâu, Trời ở đâu? Câu trả lời hẳn là – với nụ cười mỉm độ lượng thanh thoát - đã là cái “nghiệp” của mình thì vẫn làm và làm được, hãy cứ làm đi bất chấp tất cả.
(Còn tiếp)

NHỮNG NỒNG NÀN - NG.THỊ ANH ĐÀO


Phía sau những ánh mắt
Phía sau những nỗi niềm
Và những nụ cười
năm cánh hoa hồng nghiêng đêm.
Gom hết đam mê
Ly rượu đầy sóng sánh
Ngày Valentine
Nhẹ bẫng gót hồng
nụ cười vơi giá buốt
cầu mong hạnh phúc nở hoa
Mưa xuân lướt nhẹ
Lất phất những nồng nàn
Phía bên kia
Trời hanh hanh lạnh
phơi phới một sắc đào
trên đường phố sớm mai
Gom hết những vết hằn năm tháng
đặt vào đáy cốc
bồng bềnh ơi đa mang…
Không chát đắng niềm kiêu hãnh
Không mặn nồng nụ hôn
Ly rượu rót đầy duyên nợ
sợi tóc mềm rơi một giấc mơ
Nhớ những nồng nàn xưa cũ
Nhớ những lời tựa cát bay bay…

N.T.A. Đ

RĂNG RỨA - TRẦN DZẠ LỮ


Tặng một người…

O đi thẳng-cò-o-ngón
Không về thăm lại quê xưa
Để tui…cổ dài trông ngóng
Nhớ hòai nhớ mãi chưa bưa!
O thương hay O giả vờ
Cho lòng người ni dậy sóng?
Đêm đêm thức trắng làm thơ
Gửi trao một người trong mộng!
Huế miền chừ đang mở rộng
Mà răng chưa rộng tình O?
Đi chi xa lắc rứa nờ
Mười năm tui ngồi lẻ bóng…
O đi thẳng-cò-o-ngón
Tui tát gần hết nước sông
Tui đốt trăm ngàn điếu thuốc
Răng O vẫn lạnh như đồng?
Huế miền chừ đang vào xuân
Răng tui cứ mãi mùa đông
Bên tê thẳng-cò-o-ngón
Bên ni cứ như trời trồng !
O ơi, O có về không
Tui như con ngựa bất kham
Chạy qua cánh đồng bất tận
Có O là gặp mùa xuân…

T D L
(SàiGòn tháng giêng 2011)

CÂY TRE CỨU NGƯỜI - HOÀNG HẢI VÂN

CỨU TÔ SÂM
(Bài Một)

Tre làng ở xã Tây Vinh (Tây Sơn,Bình Định) - Ảnh : Hoàng Tuấn

Theo hai cuốn sách thuốc bí truyền của cung đình nhà Nguyễn là Nguyễn Phúc tộc dược minh y kính và Nguyễn Phúc tộc y gia truyền thế thường hành, có tới hơn 200 vị thuốc từ cây tre, có thể chữa được nhiều bệnh tật của dân chúng, thương tật của quân sĩ trên chiến trường và làm đẹp cho các bà hoàng trong cung cấm.

Tôi sinh ra sau một lũy tre. Mười năm đầu đời sống với tre. Ăn, ở, chơi bời, cái gì cũng gắn với tre, bị đánh đòn cũng bằng roi tre. Tre thân thiết với cuộc sống người dân nông thôn miền Trung chúng tôi như cơm ăn áo mặc, như cha mẹ như chị em như bè bạn. Thân thiết nhưng không thấy quan trọng.
Lớn lên đi học thấy tre tràn ngập trong văn chương. Người ta đã viết quá nhiều về cây tre, từ cây tre của Thánh Gióng đến cây tre vót chông đánh giặc, sách vở thơ phú cổ kim đều dành cho cây tre một vị trí trân trọng. Tre nuôi nấng chở che cho bá tánh, tre là bạn của ẩn sĩ, tre cao khiết bên cạnh thánh hiền.
“Vị xuất thổ thời tiên hữu tiết/Đáo lăng vân xứ dã hư tâm”, một cao sĩ nào đó thời xưa đã làm hai câu thơ (câu đối) quá hay như thế về cây tre: Chưa nhú khỏi mặt đất đã có khí tiết (tiết: cũng có nghĩa là đốt tre), lên đến tận mây mà lòng vẫn trống không (hư tâm: cũng có nghĩa là rỗng ruột); tiết tháo của Khổng tử, vô vi của Lão tử, sự không chấp của Thích Ca “đồng nguyên” trong một cây tre.
Còn tre của Nguyễn Bỉnh Khiêm: “Tú hoa dã trúc tam xuân hảo/Tinh nguyệt minh song nhất thất hư” (Xuân đán cảm tác), ông Đinh Gia Khánh dịch “Trúc hoang, hoa đẹp, ba xuân tốt/Cửa sáng, trăng trong, nhà trống trơ”. Theo tôi dịch như vậy không lột được ẩn ý sâu xa của hai câu thơ. Đặt dấu phẩy giữa “trúc hoang” và “hoa đẹp” làm hỏng câu thứ nhất, đặt dấu phẩy giữa “cửa sáng” và “trăng trong” làm hỏng luôn câu thứ hai. “Tú hoa dã trúc” chỉ là một, không phải là hai. Ở đây chỉ có tre thôi, Nguyễn Bỉnh Khiêm coi tre chính là hoa. Nếu hoa bên cạnh tre ở đây thì chỉ là câu thơ tầm thường. Không phải Nguyễn Bỉnh Khiêm tùy hứng coi tre là hoa, mà từ xa xưa cha ông ta đã gọi tre là “Quảng lịch thảo” hay “Quảng lịch hoa”. Cũng như vậy, ở câu thứ hai: song cửa và trăng không phải là hai thứ, mà “tinh nguyệt minh song” chỉ là cái song cửa, cái song cửa đọng ánh trăng tinh khiết mà thôi. Trạng Trình vốn coi tre là một thứ trân quý.
Có một chuyện bên lề không rõ thực hư: Ông Nguyễn Phúc Ưng Viên hỏi tôi cậu có biết sau khi Hoa Đà mổ vết thương rồi cạo chất độc ngấm vào xương của Quan Công, ông ấy rịt vào đó thứ thuốc gì không, tôi nói tôi làm sao biết được. Ông bảo đó là “Phùng ma tán”, thuốc này được làm từ gốc tre già ngâm bùn (tre ngâm bùn gọi là “trúc nịch”). “Phùng ma tán” là thuốc “thiện trị khẩu thương bất hiệp” (đặc trị vết thương không lành).
Trong loạt bài Bí ẩn trầm hương (Thanh Niên, 4 - 7.1.2011), chúng tôi có đề cập đến lời của ông Nguyễn Phúc Ưng Viên “giá trị của tre không thua kém gì trầm”. Đó vẫn là một lời khiêm tốn, có phần thiếu công bằng đối với cây tre.
Tri thức về cây tre được Nguyễn Bỉnh Khiêm cung cấp, trên cơ sở đó nhà Nguyễn đã có 400 năm khảo nghiệm và sử dụng trên mọi lĩnh vực của đời sống và quốc phòng, đúc kết thành pho y lý ghi trong hai cuốn sách thuốc bí truyền của dòng họ: Nguyễn Phúc tộc dược minh y kính và Nguyễn Phúc tộc y gia truyền thế thường hành.
Với những công dụng chữa bệnh kỳ diệu, cây tre còn được các Chân y ngày xưa gọi là “Cứu tô sâm”, tức là một thứ sâm cứu người. Y lý bí truyền của nhà Nguyễn tổng kết có trên 200 vị thuốc từ cây tre. Toàn thân cây tre, không có bộ phận nào không có tác dụng chữa bệnh. Người Việt Nam ta sống với tre, sinh tồn với tre, vì sống với tre nên ít bệnh tật. Tre chữa bệnh đề cập ở đây là tre mỡ và tre gai, hai loại tre được trồng phổ biến ở miền Trung nước ta.
Ông Viên nói ngày xưa trị thương cho quân đội làm gì có các thứ giống tây y sử dụng như ngày nay, nhưng người lính bị thương do kiếm đâm đao chém, bị bỏng nặng do hỏa công, đều được chữa trị hữu hiệu bằng “trúc nịch” và các bộ phận khác của cây tre phối hợp với một số thảo dược.
Chúng ta đều biết người bị bỏng nặng sẽ bị sốc huyết tương mà chết, tây y chỉ chữa được nếu bỏng không quá nặng. Cha ông ta trị bỏng, dùng “trúc tâm” (là đọt tre chưa xòe ra thành lá) kết hợp với cây chuối sứ con. Chuối con xắt lát giã nhuyễn vắt lấy nước. Đọt tre cũng hơ nóng giã nhuyễn vắt lấy nước. Hai thứ nước này trộn chung lại bôi đều lên vết bỏng, sẽ chống được sốc huyết tương, bảo toàn và làm hồi sinh các mạch máu. Sau khi bôi, đắp xác chuối và xác đọt tre lên vết bỏng, mỗi ngày thay một lần, ban đêm khi ngủ lấy lá chuối non hơ ấm quấn lại. Để vết thương mau lành, có thể kết hợp thêm với “trúc nịch”. Dùng phương cách này trong ba ngày sẽ ổn định. Sau khi lành, sẹo để lại rất giới hạn.
“Trúc tâm” kết hợp với trầm hương, rễ tre và dịch của cây chuối hột chế ra một loại thuốc làm tái tạo men ruột cho người bị thương hàn, đồng thời cũng dùng làm thuốc trị bỏng và cầm máu; phối hợp với chè, trắc bá diệp, bồ công anh… để trị thủng ruột non do kiết lỵ nặng, trị chứng chảy máu cam kinh niên, chứng hơi thở nặng mùi hôi hám và trĩ ra máu nhiều.
Rễ tre tưởng là thứ vô dụng chỉ làm xấu đất, nhưng ông Ưng Viên bảo không. Nó là “trúc căn”, không những không làm xấu đất mà ngược lại nó làm tốt đất, bằng chứng là xung quanh rễ tre “tập hợp” rất nhiều giun dế. “Trúc căn” có tác dụng kiện tỳ trường vị, thanh can dưỡng tạng, rất tốt cho cơ thể. Rễ tre non có thể dùng làm dưa hoặc làm bánh, ngày xưa ở một số vùng miền Trung có món bánh phất làm bằng rễ tre non. Dưa rễ tre non hoặc bánh phất ăn vừa ngon vừa trợ tiêu hóa, cân bằng cường toan, giúp men ruột non tốt và giúp ruột non thủy phân thông suốt trực tiếp vào mạch máu.
Rễ tre (“trúc căn”) còn gọi là “lạp bát”. Nếu đem rễ tre non nấu cháo với vài loại cá chép hoang dã (cá chép vàng và đen) cùng một số rau rừng thì gọi là “Lạp bát thang” hoặc “Lạp bát hoa”, ăn rất ngon, vừa bổ dưỡng vừa chữa được nhiều bệnh và giải được độc.Rễ tre non mọc xen dưới gốc chuối, mít, gọi là “trúc liên tiêu”, có thể dùng để bào chế thuốc trị chứng đau nửa đầu, chứng đau râm ran trong bụng sau khi bị tả lỵ và thương hàn.
Lá tre, gọi là “trúc diệp”, trong tự nhiên giúp cân bằng sinh thái, khi rơi xuống đất có tác dụng khống chế, thuần hóa các vật ký sinh trong môi trường. “Trúc diệp” sát tạp khuẩn nên dùng để khử độc trong ẩm thực, gói bánh đặt một lớp lá tre giữa hai lớp lá chuối sẽ làm bánh ngon hơn và để được lâu hơn. Lá tre còn lông gọi là “trúc mao diệp”, có thể dùng làm thuốc trị đẹn, nhiễm trùng họng, nhiễm trùng hô hấp, nhiễm trùng sinh thực nữ; nó còn có thể trị được chứng trào ngược dạ dày và chứng ách nghịch (nấc cụt).
Chỉ sơ sơ vài bộ phận “râu ria” của cây tre, những thứ tưởng như bỏ đi, đã thấy quý. Những bộ phận khác của cây tre còn quý hơn nhiều, trong đó có những chứng bệnh các Chân y ngày xưa bảo phi tre không cách gì chữa khỏi. Theo sách Nguyễn Phúc tộc dược minh y kính, các chứng như: “tam quan tuy tuyệt uất đàm bạo nộ”, bệnh biểu hiện ở ba mạch quan trọng trên cơ thể đã chết, đàm kéo lên như cuồng phong (đàm ở đây là dịch bôi trơn của tế bào trong cơ thể đồng loạt tiết ra), chứng này là nan y, thầy thuốc ngày trước bó tay nếu như không có dược liệu từ cây tre; hoặc chứng “Lục mạch tuy đều hình nhục thoát tử vô sầu tuyệt”, biểu hiện ở 6 mạch đều bình thường nhưng cơ thể càng ngày càng gầy đi, trạng thái chờ chết nhưng không sợ chết, chứng này tây y gọi là “lao nhiệt”, đông y gọi là “lao sác”. Bệnh “lao sác” này dùng thuốc từ tre cứu được (còn tiếp).


H H V