Ngày 30.4.75 đang ở Sài Gòn nhưng ngay sau đó đã hăng hái tình nguyện lên đường quay về Huế quê nhà tuổi thơ và tuổi trẻ để góp sức xây dựng lại quê hương điêu tàn sau chiến tranh như trong một ca khúc của mình. Thật oái oăm mà khắc nghiệt là nếu cứ ở lại Sài Gòn thì đã không phải trải qua một đoạn đời cay đắng khổ sở sau này ngay trên quê Huế thân thương (sinh Đắc Lắc song từ nhỏ đã theo cha mẹ gốc Huế quay về sống ở Huế).
Bởi đâu ngờ cách mạng chiến thắng Huế lúc ấy mang nặng ảnh hưởng Mao-ít đã đưa một số văn nghệ sĩ có hoạt động xem như “cộng tác” với chế độ cũ, chỉ có lập trường kêu gọi hòa bình chung chung chứ không chịu móc nối hoạt động nội thành hoặc thoát ly vào mật khu – như mình và Đinh Cường, Ngụy Ngữ - ra kiểm điểm công khai! Rồi đưa đi thâm nhập lao động thực tế với yêu cầu sáng tác phục vụ chế độ mới… Trước bao nhiêu o ép đó, cuối cùng phải chọn biện pháp ra đi rời khỏi quê hương mà mình từng ấp ủ nguyện vọng trở về đóng góp.
Đây là một nghi vấn lịch sử chưa có lời giải chính thức công khai. Nó nằm trong bối cảnh sau ngày 30.4.1975 từ Sài Gòn họ Trịnh tình nguyện trở về Huế “góp phần xây dựng lại quê hương” như phong trào thời đó kêu gọi. Nhưng giấc mơ đó đã sớm tan vỡ trước một thực tế nghiệt ngã của buổi sơ khai thời Hậu chiến có hòa bình rồi nhưng chưa có hòa hợp với biết bao hận thù, thành kiến nghi kỵ còn đó. Nhất là đối với những nhân thân “chưa xác minh”, những nhân vật có quan điểm lập trường “mơ hồ” như Trịnh qua những thông điệp Ca khúc da vàng “nội chiến từng ngày”, “Hát cho người nằm xuống”… bị lên án mà mãi đến nay vẫn chưa được giải tỏa.
Ngay cả các lực lượng cách mạng cũng có sự phân biệt quyền lực với nhau theo chủ trương quản lý thời này “Nhất trụ, nhì khu, tam tù, tứ kết” tức là ưu tiên lãnh đạo cho thành phần cán bộ địa phương bám trụ chiến đấu, sau đó mới đến ở mật khu về, ở tù về rồi mới đến dân tập kết vào. Huống gì là dân văn nghệ nửa nạc nửa mỡ không chống mà cũng không theo Cộng như Trịnh!
Mặt khác cần chú ý tình hình chính trị Huế thời đó nằm trong “liên bang” Bình Trị Thiên có vị trí chiến lược khép cửa miền Bắc dưới chân đèo Hải Vân tách biệt miền nam từ Đà Nẵng trở vào với đôi bên hai chính sách quản lý khác nhau: Áp dụng chế độ nội bất xuất ngoại bất nhập ngặt nghèo đi đâu cũng phải được cấp phép; vẫn còn dùng 2 loại tiền nên về đây phải đổi tiền Bắc mới xài được…. Từ đó Huế vốn là kinh đô phong kiến kẻ thù cộng sản dưới quyền Bí thư Bùi San và Giám đốc sở Trần Hoàn phụ trách văn hóa thông tin trở thành gần như một “đặc khu” độc lập khép kín thí điểm công xã, thành trì Mao-ít cực tả, cộng sản hơn cả miền Bắc! Từ đó mới có câu ca dao truyền miệng để đời “Bùi San cùng với Trần Hoàn, Cả hai xúm lại phá đàn Nam Giao”!
Tội nghiệp họ Trịnh người trói gà không chặt, hiền lành “mô Phật”, hoàn toàn ngây thơ chính trị bị rơi vào cảnh “botay.com” như thế.
Quá bế tắc, năm 1979 nhân một chuyến công tác vặt vào TPHCM – nơi đã có sẵn nhà từ trước - mới quyết định bỏ Huế “trốn” vào ở luôn tại TPHCM tìm sự che chở của những người thông cảm mình (giới văn nghệ sĩ chế độ mới như Nguyễn Quang Sáng, Nguyễn Duy cùng bí thư lúc đó là cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt) nơi một thành phố có tư tưởng cởi mở thoáng hơn.
Thế là từ đó hẳn đã bị cấp lãnh đạo Huế xem như một kẻ “phản bội”, đào ngũ, chạy trốn, thậm chí có thể là… phạm pháp nữa kia! Nên nhớ lúc đó như thế là đã bỏ… hộ khẩu mà đi không xin phép tất không được chuyển hộ khẩu phải tạm trú bất hợp pháp ở nơi khác.
Có lẽ đấy là nguyên nhân sâu xa đưa đến thái độ lạnh lùng, “dị ứng” của Huế đối với Trịnh – và nhạc Trịnh - kéo dài cho đến hàng chục năm sau. Huế chưa bao giờ tổ chức một lễ tưởng niệm đàng hoàng xứng đáng cho Trịnh, chưa hề có một Nhà Lưu niệm dành cho anh, đi khắp nơi cũng chẳng tìm thấy đâu một dấu vết nào của anh được trân trọng hay gìn giữ nghiêm túc.
Trong lúc đó dù sinh thời Trịnh có nói ca khúc của mình không hề đưa vào một từ “Huế” nào hết nhưng ai từng ở Huế biết Huế đều thấy toàn bộ không khí, âm hưởng, khung cảnh, con người trong đó đều rặt chất Huế. Từ mưa, cây cối, hoa lá, vườn hoa, dòng sông Hương, thiếu nữ “dời gót hài”, tóc bay vờn trong gió công viên, “chiều một mình qua phố” trên vỉa hè Trần Hưng Đạo, “nhìn những mùa thu đi” dưới vòm cây trường Đồng Khánh, “chiều đi lên đồi cao hát trên những xác người” ở Bãi Dâu… Có thể dùng nhạc Trịnh để qua đó vẽ nên một toàn cảnh Huế thời đó, qua đó lần mò đi truy tìm những dấu tích Huế xưa biến nó thành một cuốn “Tổng phổ Dư địa chí Huế”.
Chẳng những thế, người con này còn vang danh bốn biển, đã làm rạng danh xứ Huế khắp nước, là một tâm điểm để khách du lịch tìm đến.
Thế mà Huế đã từ bỏ một di sản đẹp như vậy cho một nơi xa lạ như Bình Quới (TPHCM) làm hết (mà lại làm quá tốt!) dù Festival Huế 2006 lại dùng khúc nhạc dạo đầu buổi khai mạc là bài… “Diễm xưa”! Nhưng Festival Huế lần đầu tiên trước khi mất, chẳng ai thèm gửi một tấm thiệp mời đến. Đến lúc qua đời mộ phần mình (và mẹ) cũng không được gửi về quê nhà như cố nhạc sĩ Châu Kỳ sau này được thỏa tâm nguyện từ TPHCM đưa về yên nghỉ trên đồi thông Nam Giao. Khác hẳn vài nghệ sĩ Việt kiều sau này làm sao gắn bó với Huế bằng được, không để lại dấu ấn đậm đà về Huế lại được ưu ái quá mức (cấp cho cả biệt thự, cho cả người không phải dân Huế gốc)!
Tuy nhiên sự đố kỵ, ghét bỏ, ruồng rẩy nếu có thì chỉ là của một số quan chức “chính trị” nào đó nặng quan điểm bảo thủ giáo điều ấu trỉ (trong đó không thể không nhắc đến vai trò của Giám đốc Sở VHTT lúc ấy cũng là một nhạc sĩ Huế đàn anh nổi tiếng – cố nhạc sĩ Trần Hoàn) chứ đâu phải toàn dân Huế? Cần nhắc đến giai thoại sau khi Trần Hoàn ra Bắc, năm 1986 Trịnh mới “dám” quay về lại, được mời lên sân khấu trình diễn thì lại chỉ xin hát độc một bài duy nhất “Em là hoa hồng nhỏ” gọi là “phi chính trị” rồi thôi làm mọi người ngỡ ngàng. Rõ ràng “sợ” Huế – Huế của cách mạng - quá rồi!
Xét cho cùng việc bỏ Huế ra đi – sau khi đã trở về với đầy thiện chí - là nhằm đi tìm con đường “tự cứu” hợp lý thôi, “vượt biên” vào TPHCM chứ có phải… qua Mỹ đâu (sau này có dịp đi Mỹ thăm Khánh Ly rồi cũng về đấy thôi)? “Đất lành chim đậu” – ngay trong lãnh thổ một quốc gia tự hào là đã thống nhất kia mà - là quy luật thế thôi. Mặt khác, nên nhớ nhờ được “giải phóng” một lần nữa ở TPHCM mới nở rộ thêm giai đọan sáng tác thứ ba Ca khúc Hòa bình - sau giai đoạn thứ nhất Tình khúc Tuổi trẻ và giai đoạn thứ hai Ca khúc Phản chiến. Lẽ ra Huế thời đó và cả bây giờ phải tự vấn rằng mình đã làm gì để bị chảy máu chất xám tới mức đó mới đúng.
Thật buồn cười nếu ngày đó không vì tình yêu Huế mà Trịnh hăm hở vội vã quay về mong làm việc “dựng lại người, dựng lại nhà” để vẫn “cố thủ” ở Sài Gòn thì hẳn sự tình đã khác (trường hợp tình nguyện trở về “dại dột” như vậy cũng đã xảy ra cho nhiều đứa con quê hương khác nữa). Biết đâu lại được Huế tôn vinh lâu rồi!
Tại sao Huế cứ để kéo dài tình trạng cố tình bỏ quên mà không chịu tiếp nhận đứa con lưu lạc trở về để cùng làm giàu thêm gia tài của mẹ, gia sản của quê hương? Không phải chỉ kêu gọi hãy “ôm Huế vào lòng” mà chính Huế cần mở rộng vòng tay ôm con cái vào lòng, bây giờ cả những đứa con bỏ nước ra đi cũng được chào đón gọi về kia mà.
Điều này mãi đến năm 2011 Huế mới chịu làm, bước đi bước đầu tiên đặt tên Trịnh cho một con đường nhỏ, cụt (600m) mới mở từ cầu Gia Hội men theo một nhánh sông Hương đâm xuống bến đò Cồn (nhìn qua sau lưng cồn Hến) mà lúc chưa đặt tên đã được mệnh danh là “con đường bia bọt” Huế! Dù sao thì cũng có còn hơn không nhưng chưa đủ.
CAO HUYKHANH
Trích " VN hồ sơ hậu chiến 1975-2011"
0 nhận xét:
Đăng nhận xét