THIỀN TỤNG


Trái tim gã chưa chịu về hưu
Còn vẫy vùng trong từng nhịp đập
gã làm thơ - Kiết - già ngôn - ngữ
ẩn trong chữ tinh - khí tràn khô
gã ngồi thiền - mắt mờ mê hoặc
thấy tóc em bay loạn phố - phường
ta rượu uống chừ say rất Phật
Phật tại tâm - tình cũng tại tâm
thành phố Huế không ai kiểm soát
ta thong dong ngồi với vương phi
rượu thơm ngát hương thời con gái
môi rồi môi cùng chạm chung ly
thi sĩ Viêm Tịnh cười như hoa
mười ngón tay hò hẹn ngọc ngà
nhà thơ Rừng Rú cười hỉ hả
rượu với tình không thể cách xa
gã hãy cố ăn kiên mặc cử
một mai trở lại bờ sông Hương
hãy cố mà công phu cho chuẩn
lỡ đêm về mộng có hồi xuân
gã bí mật hẹn thần đợi thánh
đuổi quỷ ma ra khỏi sơn hà
nhưng gã xa - Huế đồn thất thiệt
gã đã thành sư trụ phôi pha


LÊ NGỌC THUẬN

TÌNH,KHÔNG LÝ SỰ

cái lý là thứ trong đầu
nói ra là nó mong cầu đúng, sai

yêu em – ta cứ yêu hoài
cho dù em có mốt mai bên chồng
cái này phải lý hay không ?
em ơi, nó rất tấm lòng của ta

nên yêu hay không nên, và
yêu như thế có đúng là yêu em ?
là chuyện bên ngoài trái tim
là em lý sự thành quen, cái đầu !

ta cần đôi mắt nhìn nhau
một lần thôi để kiếp sau lại nhìn…
HOÀNG LỘC
4-2010

GỬI EM MỘT BÀI THƠ MỚI


Gửi em một bài thơ mới
Trong veo như nước giếng làng
Đêm nay lại không ngủ được
Hình như ngoài ấy mưa tan

Huế ơi,mưa dầm nắng cháy
Ông trời làm cái chi chi
Ví như tình yêu em vậy
Buồn vui hờn giận vu vơ

Sáng nay trời còn mưa gió
Em đi có lạnh bờ vai
Nhớ về con đường xa ngái
Gửi em một tiếng thở dài

Gửi em những bài thơ mới
Trong veo như nước giếng làng
mai sau em không đọc nữa
Anh về đốt gửi sông Hương


NGUYỄN MIÊN THẢO

HEO MAY VÀ BÃO


Lòng anh cơn bão lớn
Lòng em là heo may
Bão như cơn cuồng nộ
Rơi buốt theo tháng ngày
0
Tình em như heo may
Suốt mùa yêu thổi mãi
Anh ơi,anh có hay
Khẽ thôi mà tê dại

HOÀNG THỊ THIỀU ANH

CAO HUY KHANH - VIỆT NAM HỒ SƠ HẬU CHIẾN ( KỲ 34 )


NHỮNG SỐ PHẬN KỲ LẠ

341 - Nguyễn Hữu Cầu
TÙ NHÂN TỪ CHỐI LÀM ĐƠN XIN ĐẶC XÁ
Sĩ quan VNCH sinh tại miền Nam. Ở tù từ năm 1985 tại Đồng Nai (2010).
Đại úy địa phương quân chế độ cũ ở Kiên Giang nên sau 75 đi cải tạo 6 năm.
Tuy nhiên sau khi đi cải tạo về sống ở Kiên Giang, năm 1981 lại làm đơn tố cáo một số quan chức lãnh đạo tỉnh tham nhũng, buôn lậu nên năm 1982 bị chính quyền địa phương bắt giam rồi năm 1983 đưa ra tòa Rạch Giá xử tội “phá họai” chế độ qua việc sáng tác thơ nhạc chống Cộng, tồn trữ tài liệu tố Cộng. Kết án tử hình!
Kháng cáo kêu oan vì không phải tội chính trị mà chỉ là chống tệ nạn tiêu cực trong chính quyền nên 1985 xử phúc thẩm giảm án xuống tù chung thân. Giam ở Xuân Lộc, Đồng Nai.
Từ đó đến nay trong 28 năm ở tù đã viết hơn 500 lá đơn khiếu nại về vụ án oan sai xử mình gửûi các cấp nhưng đều không có hồi âm. Điều này dễ hiểu vì vào thời đó luật pháp còn rất giản đơn lại nặng tính chính trị quá dễ để chụp mũ tội danh “phản động”, nhất là khi đối tượng lại là “Ngụy quân” đi cải tạo về.
Dù vậy vẫn chấp nhận thụ án với thái độ nghiêm túc tin ở công lý, là một người tù lâu năm “gương mẫu” được cho đi lao động tự do ngoài trại không người giám sát song không bao giờ bỏ trốn. Chỉ kiên trì kêu oan không kết quả!
Ngay cả cán bộ trại giam cũng thông cảm, nhiềøu lần đề nghị hãy làm đơn xin đặc xá giảm án song kiên quyết không làm với lý do đây là án oan phải trả tự do, phục hồi danh dự chứ có phải là phạm tội thật đâu mà phải xin ân xá: “Tôi không có tội, bắt nhầm tôi rồi nhốt tôi hơn 20 năm. Tôi kêu oan biết bao nhiêu lần mà không ai lên tiếng. Bây giờ nói tôi có tội phải làm đơn đặc xá mới tha cho về sao được. Tôi không có tội tình gì hết!”
Trong lúc đó hoàn cảnh gia đình tan nát thê thảm, vợ đã đi lấy chồng khác, còn 2 con gái bị bỏ rơi bơ vơ lạc mất nhau mãi đến năm 2004 mới gặp lại. Con gái phải bỏ học đi bán hàng dạo lê la ngoài chợ nên mỗi năm là người duy nhất chỉ có thể đi thăm cha một lần.
Đầu năm 2010 ở trong trại đã lớn tuổi nên đau mắt phải mổ, sau đó gần như lòa luôn rồi, sức khoẻ ngày càng suy kiệt. Một số bạn tù ra trước thấy vậy mới chỉ cho cô con gái làm đơn cầu cứu lên cấp Trung ương hãy cứu mạng cha mình (đến tháng 8 chưa có kết quả).
Đây là trường hợp một “tù nhân chính trị” oan từ hậu quả của một vụ án dân sự (tội vu khống chưa biết đúng hay sai) bị gán tội chính trị hóa nên các tổ chức nhân đạo quốc tế không biếùt để can thiệp. Từ đó bất đắc dĩ trở thành một “người tù bị bỏ quên”!

342 - Nguyễn Thị Bích
CƯỚI VỢÏ CHO CHỒNG 2
Nông dân sinh khoảng 1948 tại Hà Nội. Sống ở Hà Nội (2008).
Sau 75 lấy chồng thương binh trở về từ chiến trường miền Nam sinh được 3 con gái 1 con trai.
Cả 4 người con khi sinh ra vẫn bình thường tuy nhiên bắt đầu từ 6 tháng tuổi là có biểu hiện bệnh tật bất thường sau này mới biết là do hậu quả CĐDC mà ngươì cha mắc phải trong thời gian đánh Mỹ. Kết quả một đứa con gái mất năm mới 1 tuổi, một cô con gái khác kéo dài đến năm 25 tuổi cũng ra đi, còn lại 2 đứa nữa đã gần 30 tuổi thì sống trong tình cảnh tâm thần thường xuyên bị bệnh sốt rét và động kinh hành hạ.
Thấy con cái không thể nương dựa gì được, năm 1986 ông chồng đòi… lấy thêm vợ để hy vọng có con lành mạnh sau này đỡ đần bố mẹ. Thế là bà vợ chấp nhận đi tìm vợ lẻ cho chồng cùng về sống chung dưới một mái nhà. Và may sao là người vợ sau này sinh được 3 con (1 trai 2 gái) đều lành mạnh.
Năm 1997 người chồng qua đời để lại 2 bà vợ già bây giờ phải nai lưng ra gồng gánh nuôi 5 con trong đó có 2 con bệnh hết thuốùc chữa, bà cả ở nhà nuôi lợn còn bà hai một mình cáng đáng mấy công ruộng. Rất hay là cả 2 bà từ khi sống cùng nhà cùng một ông chồng “chung” hầu như chưa bao giờ nghe hai bà có lời ra tiếng vào ganh tị hay xích mích gì với nhau.

343 - Nguyễn Thị Cơ
NGƯỜI MÙ NUÔI NGƯỜI BẠI LIỆT
Lao động nghèo sinh 1919 tại miền Bắc. Sống ở Hà Tĩnh (2007).
Xuất thân giai tầng tận đáy xã hội ở miền Bắc đi ăn xin từ nhỏ không biết bố mẹ là ai quê quán nơi nào. Đi ăn mày từ Nghệ An vào Hà Tĩnh thì được một gia đình nuôi để bắt chăn trâu cực khổ hàng chục năm trời.
Đến thời chống Mỹ tìm cách thoát ly tình nguyện đi làm dân công hỏa tuyến trên chiến trường vùng trung Lào, thượng Lào. Sau đó lấy chồng là một người tàn tật cũng bần cùng sinh được 3 con chọn đất Đồng Lộc ở Hà Tĩnh cắm dùi sinh sống.
Năm 1968 máy bay Mỹ đánh phá cứ điểm quan trọng ngả ba Đồng Lộc thả bom trúng nhà bà làm 2 con chết tại chỗ, một bị thương, riêng mình cũng bị mảnh bom cắt cụt một chân. Cả nhà phải sống vất vưởng tạm bợ qua ngày nay đây mai đó.
Sau 75 tình cảnh vẫn không cải thiện nếu không nói là ngược lại khi chồng không chịu nổi bệnh tật qua đời, con bị thương không làm lụng gì được, còn bản thân mình bắt đầu bị phát tác vết thương bom đạn cũ khiến phải nằm liệt giưừong không ai chăm sóc. Thế là lâm vào cảnh gần như bất lực tứ cố vô thân
May mà từ năm 1985 được một gia đình trong vùng thương cảm nhận về nuôi dưỡng dù không bà con thân thích gì cả. Chăm sóc rất tận tình không khác mẹ ruột mình.
Mà gia đình này – gia đình anh Nguyễn Xuân Thủy – cũng chẳng khá hơn mấy khi anh vốn là con liệt sĩ cũng là một nạn nhân của trận chiến Đồng Lộc năm xưa bị trúng bom Mỹ mù một mắt, mắt còn lại chỉ còn thị lực 10% nên mọi việc trông cậy vào một tay vợ tảo tần nuôi 3 con.
Nhưng dù vậy vẫn chấp nhận cưu mang bà cụ “người dưng” bệnh tật đủ thứ chỉ bởi cách nghĩ nghĩa tình đơn giản của người chân quê: “Vợ chồng mình đã khổ nhưng cụ còn khổ hơn nhiều… Mình làm việc nghĩa thế nào trời đất cũng giúp mình, miễn sao trời đất cho vợ chồng mình mạnh khoẻ không ốm đau là được…”

344 - Nguyễn Thị Linh
VỢ CỐ THƯƠNG BINH CÓ 2 CON MẮC BỆNH AIDS
Thường dân sinh khoảng 1949 tại Quảng Ninh. Sống ở Quảng Ninh (2007).
Sau chiến tranh, chồng bộ đội chiến đấu ở Mỹ Tho trở về sinh được 2 trai 1 gái tưởng chừng hạnh phúc đã đếùn rồi. Nhưng chỉ vài năm sau chồng qua đời vì bệnh ung thư di chứng CĐDC.
Còn lại một mình và 3 con nhỏ dại phải đi làm thuê khắp nơi đủ các nghề lao động chân tay cực nhọc trong ngành tàu biển để có tiền nuôi con. Con cái không ai lo khiến đứa con trai đầu mắc tệ nghiện hút, nhiều lần đi cướp giật lấy tiền hút xách bị bắt vào trại cai nghiện, cuối cùng dính luôn bệnh HIV/AIDS.
Người mẹ tuyệt vọng tới mức có lần định nhảy xuống biển tự tử song cuối cùng tình mẫu tử đã giữ bà ở lại, quay về cố gắng tìm mọi cách chăm sóc con. Đặc biệt còn tự mình hỏi han, tìm kiếm thông tin về cách thức chăm nom, điều trị, an ủi bệnh nhận của căn bệnh mới ác nghiệt này.Tuy nhiên vẫn không cứu được con khỏi chết.
Bất hạnh như thế tưởng đã quá rồi, không ngờ đến đứa con trai thứ hai lấy vợ sinh được 2 cháu đi làm xa lại cũng rơi vào thảm cảnh như người anh, lại bị nhiễm HIV! Thế là mình lại tiếp tục bổn phậnï của một người mẹ tự nguyện nuôi dưỡng bệnh nhân AIDS cho đến lúc núm ruột của mình lìa đời.
Bây giờ chỉ còn 2 cháu nhỏ là niềm an ủi cuối đời. Bên cạnh đó còn tìm niềm vui trong nhiệm vụ cộng tác với CLB Đồng cảm ở địa phương giúp đỡ bệnn nhân AIDS nhờ những kinh nghiệm bất đắc dĩ chăm sóc 2 con đã vĩnh viễn ra đi: “Người bị nhiễm HIV/AIDS sợ nhất là sự kỳ thị của mọi người. Chính điều đó làm họ mất hết niềm tin vào cuộc sống và giết chết họ trước khi chết vì bệnh.”

345 - Nguyễn Thị Lương
TRẢ LẠI DANH LIỆT SĨ CHO CẬU
Thường dân sinh tại Thái Nguyên. Sống ở Thái Nguyên (2009).
Có cậu là liệt sĩ hy sinh năm 1971 trên chiến trường miền Nam không rõ tông tích mộ chí nay ở đâu.
Mãi đến năm 2004 mới tìm ra đã được quy tập về Nghĩa trang Trường Sơn ở Quảng Trị nhưng do thiếu thông tin nên được đưa vào khu vực mộ “tử sĩ”. Thế là mình tiếp tục đi nhiều nơi, nhiều đơn vị đấu tranh trả lại danh hiệu cho liệt sĩ qua những chứng cứ thu thập về đoạn đời chiến đấu của người cậu. Kết quả cuối cùng được tỉnh Thái Nguyên công nhận chuyển cho Nghĩa trang Trường Sơn khôi phục danh hiệu liệt sĩ và dời ra khu vực mộ liệt sĩ.
Đây là ngôi mộ tử sĩ đầu tiên trong 78 phần mộ tử sĩ vô danh tách riêng ở nghĩa trang này nay được phục hồi liệt sĩ. Hồn cậu bây giờ chắc đã đỡ tủi thân bỏ mình vì đất nước mà không được công nhận một thời gian quá dài.

346 - Nguyễn Thị Lý
NHỚ ÂN NHÂN NGƯỜI MỸ
Thương binh sinh 1947 tại Sài Gòn. Sống ở TPHCM (2009).
Mới 14 tuổi đã vào chiến khu Củ Chi theo cha đánh Mỹ.
Năm 1969 lọt vào một ổ phục kích bị trọng thương nặng bất tỉnh nên bị bắt. Sau đó phải bị cưa cụt 2 chân rồi đưa vào nhà tù tra khảo ròng rã 3 năm, cuối cùng vết thương tái phát nên năm 1971 được chuyển qua bệnh viện Mỹ ở Tân Sơn Nhất để tiếp tục chữa trị.
Tại đây gặp một nữ bác sĩ Mỹ tốt bụng chăm sóc hết sức chu đáo, đến khi ra viện thấy hoàn cảnh trơ trọi không ai lo (đã mất liên lạc với cơ sở) nên đem luôn về nhà nuôi dưỡng. Đưa đi tập vật lý trị liệu, còn lắp cho 2 chân giả giúp đỡ hồi phục suốt cả năm trời, toàn bộ chi phí do gia đình nữ bác sĩ này này chịu hết.
Năm 1973 mới tìm gặp được ông bà nội đón về. Một thời gian sau gia đình quay lại cám ơn người ơn “kẻ thù” kia thì bà đã về nước rồi!
Sau 75 bán tạp hóa sinh sống qua ngày, không dám lập gia đình vì sợ mình tàn tật ăn bám. Bằng cách lê đầu gối khắp nhà đã một mình lo hết việc nhà, còn nuôi thêm mẹ già 84 tuổi và một đứa em trai hơn 40 tuổi mắc bệnh tâm thần đã 20 năm rồi. Xin một bé gái làm con nuôi nay cũng đã chồng con đề huề.
Cuộc đời không còn gì hối tiếc, chỉ có nỗi ân hận trong lòng là chưa tìm gặp được nữ bác sĩ người Mỹ năm xưa: “Dù đạn Mỹ đã gây nên thương tật cho cả đời mình, tôi chỉ còn đau đáu một điều là chưa nói được một lời cám ơn tới người bác sĩ Mỹ thầm lặng những ân tình…”
Trong những kỷ vật chiến tranh còn giữ lại có 2 món vẫn ấp ủ trân trọng là tấm ảnh gia đình ân nhân và chiếc bô đi vệ sinh mà người nữ bác sĩ đó đã đưa cho khi chia tay cách đây đã hơn 40 năm.

347 - Nguyễn Thị Minh
BÀN THỜ LIỆT SĨ TRÊN THUYỀN
Ngư dân sinh tại Nghệ An. Sống ở Nghệ An (2005).
Chồng mất sớm một mình làm nghề chài lưới trên sông Lam nuôi 6 con trai. Vào những thời điểm chiến tranh căng thẳng còn làm nhiệm vụ chở bộ đội, lương thực qua sông.
Năm 1968 đứa con trai thứ hai (tên Vân) lên đường nhập ngũ vào Nam chiến đấu, hẹn sẽ trở về sinh cho mẹ cháu trai nối dõi. Nhưng năm 1973 hung tin báo về anh đã tử trận ở Quảng Trị, người mẹ gần như hóa điên cởi hết áo quần đi lang thang dọc sông khi khóc khi cười, tay ôm khư khư một khúc gỗ quấn trong những miếng giả rách giả làm đứa con trai đã ra đi vĩnh viễn.
Một thời gian nguôi ngoai mới tỉnh lại lập bàn thờ cho con liệt sĩ trên chiếc thuyền già cỗi gần mục nát mà cũng không có ảnh còn để thờ nên thay vào đó là chiếc huân chương. Có hôm gặp bão lớn sợ thuyền lật phải chạy lên bờ trú thân thì vật duy nhất ôm theo là tấm huy chương được trìu mến gọi là “Thằng Vân”. Tuy vậy mỗi buổi sáng vẫn không ngưng mong ngóng về hướng Nam như chờ thấy hiện lên bóng dáng con về!
Sau chiến tranh vẫn tiếp tục cuộc sống nghèo khổ một mình một thuyền trên sông nhưng tuổi già sức yếu chỉ còn trông vào việc đi mót khoai trên bãi bồi sống lủi thủi qua ngày. Còn 5 đứa con còn lại không học hành nên nghèo vẫn hoàn nghèo phải bỏ vào Nam tìm đường kiếm sống, chỉ còn lại 2 vợ chồng một đứa cũng làm nghề đánh cá không khá hơn nên chẳng giúp đỡ gì được.
Vậy mà không thấy một lời oán trách gì, chỉ có một nỗi buồn ăn năn ám ảnh mãi trong lòng là đã hơn 35 năm nay từ ngày con bỏ mình do quá nghèo mà đường xá xa xôi nên chưa hề một lần vào đến tận nơi thắp cho con một nén hương. Bởi trên bàn thờ liệt sĩ trên thuyền thường không dám thắp hương sợ gió lộng trên sông làm cháy luôn cả chiếc thuyền đã rách nát!

348 - Nguyễn Thị Mỹ Liên
BỊ BẢO MẪU BẮT CÓC
Thường dân sinh tại miền Trung. Sống ở Bình Thuận (2009).
Trước 75 cha mẹ đều chết trong chiến tranh nên cùng 2 anh trai được đưa vào một cô nhi viện ở Cam Ranh.
Năm 1968 một gia đình người Mỹ nhận cả ba làm con nuôi chuẩn bị đưa về Mỹ. Nhưng có bà bảo mẫu mù không chồng con ở cô nhi viện do quá thương bé gái này nên đã lẳng lặng bế em đi mất đưa về quê Bình Thuận làm con luôn! Khiến gia dình người Mỹ đành chỉ nhận 2 đứa anh còn lại đem qua Mỹ.
Còn bé gái được bà bảo mẫu mù nuôi dưỡng ở Bình Thuận trong cảnh nghèo khó cùng cực, lớn lên lấy chồng sinh được 3 con làm lụng vất vả nuôi con. Trước khi mất năm 2004, bà bảo mẫu mới tiết lộ lai lịch cho người con gái nuôi mình đã “bắt cóc” năm nào. Lúc đó người con này mới tìm cách quay lại cô nhi viện Cam Ranh để hỏi thăm về 2 anh mình nhưng thời gian trôi qua lâu quá rồi chẳng ai biết được tin tức gì. Nhưng chính từ đó người em gái mới để lại dấu vết cho 2 người anh sau này tìm thấy.
Bởi 2 người anh đó bấy giờ đã thành đạt ở Mỹ, làm hiệu trưởng đại học và giám đốc bệnh viện chuyên ngành ung thư lâu nay vẫn tìm cách liên lạc về nước nhờ người truy tìm em gái.
Cuối cùng thông qua sự giúp đỡ của một chuyên gia tìm tông tích người thất lạc trong chiến tranh – anh Lê Cao Tâm giám đốc một công ty ở TPHCM – đã tìm ra manh mối từ cô nhi viện Cam Ranh để dò la ra tông tích bé gái bị bắt cóc năm xưa sau 41 năm nay mới được đoàn tụ cùng 2 anh trai.

349 - Nguyễn Thị Mỹ Liên
CON NUÔI TRIỆU PHÚ MỸ VỀ TÌM MẸ 16 NĂM
Doanh nhân Việt kiều sinh 1968 tại Nha Trang. Sống ở TPHCM (2009).
Mẹ gốc Bình Định sau khi cha đi tập kết thì mẹ (tức bà nội) đi lấy chồng khác vào Nha Trang sinh sống.
Tại đây mẹ có bầu nhưng cha bỏ đi lấy vợ khác, một mình sinh con gái đặt tên Bùi Thị Thu Thu bị cha dượng đuổi cả 2 mẹ con ra khỏi nhà vì tội chữa hoang.
Một mình bơ vơ không tiền độ nhật nên mẹ phải gửi con nhờ một người bạn gái bán ngoài chợ trông giùm để mình đi đi gánh nước thuê kiếm tiền nuôi con dại. Không ngờ người trông con lại… bồng con đi mất, nghe nói vào Cam Ranh liền vào tìm song chẳng biết nơi đâu mà lần. Đành nghẹn nào lủi thủi sống một mình mà lòng tan nát nhớ thương con côi cút nhỏ dại giờ không biết lưu lạc phương nào, còn sống hay đã chết.
Rồi thời gian qua đi cũng phải gắng gượng mà sống. Lấy chồng khác sinh được một con trai nhưng khi con trai mớùi được 4 tuổi thì chồng qua đời năm 1990. Từ đó ở vậy nuôi con trai, ban đầu đi làm thuê rồi chuyển qua đẩy xe bán dạo đồ ăn và cho thuê ghế bố trên bãi biển Nha Trang. Sau đó để dành tiền mở một quán ăn sát bờ biển.
Về đứa bé gái biệt tích ngày ấy không hiểu sao cuối cùng lại được đưa vào cô nhi viện ở Cam Ranh. Có giả thuyết người bạn gái trông con giùm có chồng đi lính ở Cam Ranh vì vô sinh nên muốn bắt bé làm con nuôi song người chồng biết được không đồng ý nên phải chọn giải pháp cho cô nhi viện rồi… trốn mất!
Bé gái ở cô nhi viện từ lúc mới 3 tháng rưỡi đến 4 tuổi năm 1972 được một gia đình người Mỹ nhận làm con nuôi đem về Mỹ, đặt tên Mỹ là Joy My Lien Degenhardt.
Không ngờ đây là một gia đình giàu có chuyên làm từ thiện nuôi đến 9 con nuôi (có 3 VN). Từ đó cô bé được giáo dục, đào tạo lớn lên thành một doanh nhân kiêm nhà hoạt động từ thiện chuyên thực hiện những dự án giúp đỡ trẻ em nghèo bất hạnh khắp thế giới.
Song song đó bản thân mình vẫn nung nấu ước mong tìm lại được mẹ ruột nên bắt đầu từ năm 1992 đã trở lại quê hương vừa hợp tác làm những dự án nhân đạo giúp 12 tỉnh thành VN vừa nhân đó tìm kiếm dấu vết người mẹ. Chấp nhận sống ở TPHCM lâu dài để tiến hành cuộc tìm kiếm, học tiếng Việt để dễ hòa nhập với quê mẹ.
Nhưng ròng rã hơn 15 năm lặn lội đi khắp nơi, hễ có thông tin là tìm đến cả trăm địa chỉ kết quả vẫn là con số không với không ít lần bị mẹ “nhận lầm” hoặc mình “nhận lầm” mẹ!
Không chỉ thế, vì tính chuyện ở lâu nơi đây nên đã lấy chồng Việt sinh được 3 con gái rốt cuộc lại bị ông chồng này cướp hết nhà cửa tài sản phải ôm 3 con ra đi tay trắng. Còn bị một cú lừa làm ăn khác mất đứt một căn nhà trị giá đến 200.000 USD.
Bị đẩy vào đường cùng, thấùt vọng não nề cả chuyện công lẫn tư nên năm 2008 đã tính chuyện từ bỏ VN qua Singapore làm lại tất cả.
May mắn thay đến thời điểm cuối năm đó cũng nhờ chuyên gia tìm kiếm Lê Cao Tâm tập trung vào điểm chính là Nha Trang nên đã dò la ra được mẹ ruột thì ra vẫn sống ở Nha Trang, từ manh mối qua một chị bán dạo trên bãi biển mà bà mẹ từng mở quán ở đó. Nhờ những dấu vết nhận dạng con mà chỉ mẹ đẻ mới biết được, một cái bớt nâu ở vai tráùi và 2 nốt ruồi đen nơi vai phải.
Lúc đó mới hay rằng những lần mình đến Nha Trang làm việc luôn thich ghé vào một quán ăn có vẻ “thân quen” ở bờ biển mà không biết rằng ấy chính là quán của mẹ mình!

350 - Nguyễn Thị Muộn
BÀ GIÀ CHĂN BÒ
Thường dân sinh tại Thái Bình. Sống ở Thái Bình (2007).
Là Thanh niên xung phong thời chống Mỹ, có người yêu là bộ đội vào Nam nên sau 75 mới lấy nhau khi tóc đã chớm bạc.
Nhưng 6 lần sinh thì 3 lần hư thai, 3 con sinh được thì lớn lên mắc bệnh thầøn kinh điên dại, tất cả vì bị nhiễm CĐDC. Rồi chồng cũng mất do bệnh đó khi chất dioxin đã ngấm sâu vào máu.
Vẫn phải sống để nuôi 3 con tâm thần, trở thành bà già chăn bò nhờ được mạnh thường quân trợ giúp mua cho một con bò nuôi lấy sữa bán đắp đổi qua ngày tháng đoạn trường.
(Còn tiếp)

TƯƠNG TỎA


Làm sao cấm trái tim anh khóc
Suốt tháng ngày bão giông
Cuộc sống quay ngược dòng
Mà anh mong
Trái tim em trở về vĩnh cửu?

Làm sao cấm tình yêu anh
Dành cho triệu người phụ nữ
Trái tim đàn bà
Ai không đa mang?

Em cấm cảm xúc mình đối diện
Những vui buồn tựa khói
Ngoài kia
Lây phây mưa
Những cọng buồn run lá...

Cảm xúc biết gọi tên
Bằng điều đánh mất
Nỗi nhớ đêm mòn trên gối
Rong rêu quán cũ
Người cũ
Cà phê đắng
Thánh thót nốt buồn

Em không cấm bàn chân ngược phố
Tương tỏa
Hay tình yêu anh đính lên mắt em
Những chuỗi buồn biết khóc?


NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO
27-3-2010


BÀI CAN GIÁN


xin em chớ dại yêu người
và xin lỡ có yêu tôi -
cũng đừng
đã là kẻ lạ – người dưng
cầm như chút muối chút gừng
vậy thôi

thì cay thì đã mặn rồi
và em thì cũng một đời lìa tan

hồng nhan
vẫn cứ hồng nhan
tài hoa là chỉ điệu đàng tài hoa

đã tôi buốt một giang hà
áo xưa lãng tử
cuối tà huy
phơi

HOÀNG LỘC
4-2010

MỘT KHÚC CŨNG ĐÀNH


Một ngày có sáu khắc
một đêm có năm canh
chuông mõ chùa xa không làm sao thấy rõ
chỉ hồ như

hồ như có khắc nào T nghĩ đến anh
hồ như có canh nào anh nghĩ đến T

dẫu ít dẫu nhiều
mình cũng đã cùng nhau một đoạn

ĐÔNG HÀ

MỘT CHÚT MÙA THU


Trộm của mùa thu một ít nắng vàng
Một chút mưa bay không ướt áo
Bài học thuộc lòng thời niên thiếu
Mùa thu trong vườn Luxembourg

Và mùa thu không hết bao giờ
Lá vẫn rơi trên vai pho tượng
Trên đôi vai ngày mưa tháng nắng
Gánh lấy cuộc đời mang nặng ưu tư

Trộm của mùa thu một ít mây giăng
Một chút cũng đủ làm ngây ngất
Trong trái tim chứa đầy cảm xúc
Thu chưa về giấy bút đã hoang mang

Muốn gửi đi dù chẳng biết đâu tìm
Những rung động tinh khôi không địa chỉ
Trong cảm xúc và trong ý nghĩ
Trong mỗi lá vàng có một muà thu

Và con sông tải nước xa về
Trong cơn gió tải mùa thu tới
Cả bầu trời đầy những sao khuya
Bảo sao lòng không diệu vợi

Tiếng guốc dòn tan của người nào đấy
Mơ màng khua động sáng hôm nay
Vỉa hè cũng mới vừa thức dậy
Mẫn cảm hơn lên sau giấc ngủ dài

Trộm của mùa thu trộm của một người
Trộm đôi mắt của ai trong leo lẻo
Lá thu chỉ vàng lá thu không héo
Trái tim vô tình một sáng bỗng sinh đôi

CAO THOẠI CHÂU

TRẦN ĐÌNH SƠN,NGƯỜI NỐI QUÁ KHỨ VỚI HIỆN TẠI


Trần Đình Sơn là một nhà cổ học, nhà nghiên cứu lịch sử, văn hóa nghệ thuật, đặc biệt là các triều hậu Lê, Trịnh- Nguyễn, ông còn là nhà nghiên cứu Phật học và là một cư sĩ đạo tâm.
Tình bạn vong niên và niềm đam mê chung với cổ vật
Trần Đình Sơn từ tuổi niên thiếu ông say mê cổ vật, và khi trưởng thành, niềm say mê ấy đã đưa ông đến với thế giới của "người xưa" như một tri âm, tri kỷ.Năm 1968, khi vào Sài Gòn học lúc 18 tuổi, Trần Đình Sơn gặp và mau chóng được lòng cụ Vương Hồng Sển, trở thành người bạn vong niên "ruột" của cụ. Tình bạn thâm giao này được xem là hy hữu này trong giới cổ ngoạn Sài Gòn thuở ấy.Lúc mới chuyển từ Huế vào Sài Gòn, theo học Đại Học Luật, lần đầu tiên Trần Đình Sơn tìm đến Vân Đường Phủ , mang theo hai cổ vật gia bảo để ra mắt cụ Vương Hồng Sển. Ông kể lúc đầu mới gặp, cụ tưởng ông mang đồ cổ đến gạ bán nên chỉ hỏi giá cả để mua chứ không trao đổi giải thích nhiều. Thất vọng và cảm thấy bị xem thường, trước khi từ giã, ông thưa với cụ: "Cháu nghĩ cụ có đôi mắt ngọc để phân biệt đồ xưa vật quý nhưng rất tiếc cụ không xem được người". Tưởng nói cho đã rồi một đi không quay lại, ai ngờ chính câu nói của đứa học trò xứ Huế lúc đó đã làm cho vị học giả cao niên ngạc nhiên rồi thay đổi thái độ và giữ ông lại để tâm tình.Từ đó về sau, ông thường lui tới thăm viếng để cụ hướng dẫn cho kinh nghiệm thực tế về đồ cổ, bổ sung kiến thức về phong tục tập quán của người dân miền Nam... Ngược lại, Trần Đình Sơn thỉnh thoảng giải thích cho cụ phong tục tập quán ở Huế, lễ nghi triều đình, nếp sống của những gia đình quyền quý xưa hoặc đọc giúp một vài niên hiệu, câu thơ trên đồ sứ cổ.Giao tình một trẻ một già cách nhau gần 40 năm, nay ông nghiệm lại thấy nhân duyên ấy lâu dài cũng nhờ cụ Vương có mắt nhìn người, có tấm lòng muốn truyền trao cho lớp hậu sinh những điều tâm đắc về cổ ngoạn, đặc biệt là đồ sứ thời Lê Nguyễn.Cổ vật thuộc về thế giới của "người xưa", ẩn chứa nhiều thông điệp vượt thời gian, không phải ai cũng có thể cảm nhận và hiểu, nhưng ở Trần Đình Sơn dường như có mối giao cảm đặc biệt. Dưới lớp men sứ hay hình vẽ trên cổ vật, ông "đọc" hay giải mã được nhiều điều kỳ thú.Cổ vật nói chung bao gồm nhiều thể loại, thời đại, xuất xứ... khác nhau, ông phân tích. Rất khó có người am hiểu sâu sắc được nhiều lãnh vực. Ông tự nhận mình chỉ có duyên với loại đồ sứ ký kiểu thời Lê Nguyễn, đơn giản vì được sinh trưởng tại cố đô Huế, được nuôi dưỡng trong môi trường đậm đặc chất liệu cổ điển, tuổi thiếu niên thường rong chơi trong cố cung, lăng tẩm, chùa chiền... Thời đó triều Nguyễn mới cáo chung nên trong các di tích, vẫn còn rất nhiều cổ vật trang trí.Nếp sống của người Huế còn giữ gìn kiểu cách xưa của ông bà. Chính những con người "tiền triều" đó đã chỉ dạy giải thích cho Trần Đình Sơn nhiều điều về Huế thưở vàng son. Nay nghiệm lại ông thấy chính những bài học truyền khẩu đã giúp cho mình giao cảm được với người muôn năm cũ, nhập tâm để có thể giải mã được những điều kỳ thú ẩn chứa trong cổ vật.
Đi tìm những nét đẹp trong phong tục của người xưa
Chọn "Những nét đan thanh" làm đề tài cho cuốn sách đầu tay về cổ vật, cũng như một triển lãm chuyên về đồ uống trà của người Việt nhiều thế kỷ trước, ông muốn giới thiệu đến những người ham thích cổ ngoạn những điển tích, thơ văn thường gặp trên các loại hình đồ cổ. Điều đó giúp cho họ có căn bản, hứng thú để tiến xa hơn.Bản thân ông bước đầu sưu tầm đồ cổ cũng được cụ Vương Hồng Sển hướng dẫn và khích lệ nhiều về thú chơi chén dĩa trà ký kiểu. Ông góp nhặt thành một bộ sưu tập tương đối phong phú, mang một không khí "trà đạo" Việt thanh thoát, tinh tế thấm đẫm chất thiền của những nho sĩ, ẩn sĩ đạt tới cảnh giới của sự thanh bình.Tự nhận "biết mình không có tài hoa để sáng tác thơ văn", nhưng tập tản mạn "Cao Sơn lưu thủy ngộ tri âm" của ông lại nặng lòng cố sự, có nhiều cảm xúc trước cảnh "vật đổi sao dời", phác họa những thú vui tao nhã, những nét văn hóa phong tục xưa... với chất "văn" rất đẹp trong câu chữ. Ngoài những tác phẩm chuyên đề về cổ ngoạn, ông cũng cộng tác với một số tạp chí để công bố những bài nghiên cứu về lịch sử, mỹ thuật, tín ngưỡng hay những tạp văn ngẫu hứng. Cứ một, hai năm gom lại in thành một tuyển tập.Năm 2009, Trần Đình Sơn lại cho ra mắt cuốn sách gây chú ý và ấn tượng trong giới nghiên cứu cổ vật văn hóa nghệ thuật VN - "Thưởng ngoạn đồ sứ ký kiểu thời Nguyễn 1802-1945". Cả một triều đại thịnh - suy, văn hóa ẩm thực cung đình, phong cách trang trí nội thất, thư phòng trong cung vua, phủ chúa và cả giới bình dân qua hình ảnh những đồ sứ cổ được ông giải mã.Điều ông tâm đắc nhất là công bố việc phát hiện những bài thơ Nôm độc đáo của vua Gia Long. Những món đồ sứ sản xuất tại Anh, Pháp, Bồ Đào Nha, Đức thông qua con đường truyền giáo và thương mại đã đi vào cung đình Huế. Điều đó giúp cho chúng ta hiểu thêm về tâm tình của vị vua khai sáng triều Nguyễn, chứng minh sự giao lưu văn hóa mỹ thuật của nước ta với các nước phương Tây. Triều đình không chỉ gửi kiểu đặt làm đồ sứ bên Trung Quốc mà còn đặt làm đồ sứ ở các nước châu Âu.
Nặng lòng với Thăng Long
Là Phó Ban Văn hóa Trung ương giáo hội Phật giáo VN, đặc trách nghiên cứu về văn hóa - lịch sử, kiến trúc Phật giáo, trong buổi nói chuyện tại Viện Goethe ở Paris tháng 4/2004 do Hội thân hữu Pháp - Việt mời, ông đã nêu lên những "nghi vấn" về cổ vật phát lộ trong khu di tích Hòang thành Thăng Long liên quan tới "cổ tự" - chùa trong hoàng cung. Ông cho biết Lý Công Uẩn được nhà chùa nuôi dưỡng từ thưở thơ ấu, khôn lớn lại may mắn được các bậc cao tăng đương thời rèn luyện, dạy dỗ, đặc biệt là thiền sư Vạn Hạnh. Do đó khi khai sáng triều Lý, ông xác lập một triều đại quân chủ Phật giáo để định hướng xây dựng, phát triển đất nước theo tư tưởng Phật giáo.Đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng, sinh hoạt văn hóa xã hội, nhà vua cho xây dựng nhiều chùa tháp to lớn tại kinh đô Thăng Long và khắp các địa phương. Nhờ đó dần dần hình thành nếp sống, tình cảm tốt đẹp trong quần chúng mang đậm sắc thái văn hóa Việt khác với văn hóa Trung Quốc bị chi phối nặng nề bởi tư tưởng Tống Nho. Rất tiếc việc làm theo lý tưởng vì hạnh phúc của số đông, lấy nguyện vọng của quần chúng làm nguyện vọng của mình của vị quân vương về sau bị các Nho sỹ đứng trên lập trường Nho giáo thiển cận phê phán.Sử quan Lê Văn Hưu viết trong "Đại Việt sử ký toàn thư" rằng: "Ngay sau khi lên ngôi, và dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long vua Lý Thái Tổ đã hạ chiếu xây dựng tám cảnh chùa ở phủ Thiên Đức. Trong Hoàng Thành lập chùa Hưng Thiên, ngoài thành lập chùa Thắng Nghiêm". Như vậy kinh đô Thăng Long từ thời đầu đã có nhiều chùa chiền to lớn". Nếu đối chiều các cổ vật bằng đá, đất nung... được khai quật, phát hiện trước đây tại các di tích Phật giáo thời Lý Trần với các hiện vật được khai quật khảo cổ trong phạm vi hoàng thành Thăng Long năm 2002-2003 thì thấy chúng rất giống nhau về chất liệu, biểu tượng, hoa văn trang trí chứng tỏ thời Lý Trần cung điện và chùa chiền được triều đình chủ trương xây dựng quy mô lớn như nhau.Điều này khiến cho sứ thần Lê Văn Hưu từng nhận xét: "Lý Thái Tổ lên ngôi mới được hai năm, tông miếu chưa dựng, đàn xã tắc chưa lập mà trước đã dựng tám ngôi chùa ở phủ Thiên Đức, lại trùng tu chùa quán ở các lộ và độ cho làm tăng sỹ hơn một ngàn người ở Kinh Đô... Thái Tổ làm gương như thế chả trách đời sau xây tháp cao ngất trời, dựng cột chùa bằng đá, điện thờ Phật lộng lẫy hơn cung vua".Nhờ cuộc khai quật khảo cổ học năm 2002-2003, chúng ta may mắn tiếp cận được nhiều loại hình cổ vật qua các triều đại. Nhìn ngắm di sản của tiền nhân truyền lại, ông không khỏi trăn trở:* Làm sao khôi phục được An Nam tứ đại khí, từng là niềm hãnh diện của dân tộc, biểu tượng của văn hóa mỹ thuật Đại Việt đã bị giặc phương Bắc, phương Tây xâm lăng phá hoại: tháp Báo Thiên, chuông Quy Điền, tượng Quỳnh Lâm, vạc Phổ Minh.* Làm sao giải mã được ý nghĩa chính xác các biểu tượng, hoa văn, văn tự... trên các loại hình cổ vật đã được khai quật để chúng ta hiểu được định hướng của tổ tiên trong việc xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt .* Tại sao những thành tựu về kiến trúc, mỹ thuật trang trí trải qua các triều đại độc lập tự chủ Lý, Trần, Lê càng ngày càng bị mai một. Hoặc nếu gần đây được trùng tu tôn tạo cũng dần dần lai tạp trở thành "nửa ta nửa Tàu" hoặc "nửa Tây nửa ta", nếu không kịp thời chấn chỉnh, có thể đất nước chúng ta đang bị xâm lăng văn hóa mặc dù nhiều người vẫn hô hào trở về với truyền thống dân tộc!
Vật sẽ tìm đến với người ưa thích
Trần Đình Sơn sinh ra trong một gia đình "danh gia vọng tộc" ở Huế, ông cố là Trần Đình Bá, Phó Bảng, Tổng đốc Nghệ An, Thượng thư Bộ Hình triều Nguyễn, rất ham mê sách nên đã để lại gia tài cho người cháu nội đời thứ 3 là tủ sách Phước Trang nổi tiếng thời bấy giờ. Kho sách tại gia nổi tiếng ở TP.HCM hiện thời với những cuốn sách Hán Nôm và sách quốc ngữ, ngọai ngữ ."Kho sách" tại gia của ông với hơn 7000 cuốn toàn sách quý hiếm rất nổi tiếng ở TP. HCM, song ông cho rằng ở thành phố này còn nhiều tủ sách gia đình quý hiếm, phong phú hơn nữa, nhưng có thể vì nhiều lý do mà chủ nhân chưa chịu trình làng khiến ít người biết. Riêng tủ sách của gia đình ông có nhiều tài liệu lịch sử, văn học, tôn giáo bằng chữ Hán Nôm của tiền nhân để lại. Cụ Vương Hồng Sển cũng tặng ông thêm một số sách quý hiếm thời Đông Dương.Trần Đình Sơn không được đào tạo chuyên ngành Hán Nôm, mà chỉ theo truyền thống gia đình học hỏi và ham mê từ thưở nhỏ. Sau này ông học thêm qua thơ văn trên đồ sứ cổ hoặc một các bản kinh sách Phật giáo. Ngày nay ngôn ngữ đó cũng là một thứ "cổ vật" - phi vật thể, rất ít người còn ham mê theo đuổi, do đó ông ước mong di sản Hán Nôm của tiền nhân để lại được phiên dịch càng nhiều càng tốt, giúp cho các thế hệ trẻ tìm hiểu lịch sử, văn hóa truyền thống đầy đủ, chính xác hơn.
Là người có tín ngưỡng Phật giáo, ông tin tưởng điều gì đủ nhân, duyên thì sẽ được thành tựu. Ông thường nói với các bạn trẻ rằng: người xưa có dạy "vật thường tìm đến với người ưa thích nó", thế nên ai chú ý sưu tầm các loại cổ vật Việt Nam, tìm hiểu đến nơi đến chốn sẽ phát hiện được những thông điệp của người xưa gửi gắm qua thơ văn, điển tích thể hiện trên các vật dụng sinh hoạt, bổ sung cho việc tìm hiểu lịch sử, văn hóa nước nhà.
HÀ HƯƠNG
http://www.tuanvietnam.net/

LỜI ĐỂ LẠI CHO CON NHÂN SINH NHẬT 65


Các con sinh ra giữa thời khốn khó
những bữa cơm không có tiếng cười
những bữa cơm độn hoài khoai sắn
tuổi-thơ-trốn-tìm không có món đồ chơi

Cái nghèo khó dạy các con làm được con người
cái nghèo khó dạy các con những điều nhân nghĩa
ba suốt một đời đi tìm lẽ phải
trả giá cuộc đời bằng những đòn roi

Ba vẫn tin đời tươi đẹp vô ngần
ba vẫn tin ngày mai có những điều đổi khác
giữa trăm nghìn lối đi biết giữ mình trong sạch
hãy yêu người người sẽ yêu ta

Rồi có một ngày ba sẽ đi xa
lẽ sinh diệt thường tình ai biết được
các con rất buồn nhưng đừng bật khóc
nỗi đau nào rồi cũng sẽ phôi pha

Ngày ba đi mẹ con như chim lẻ bạn
sẽ buồn thương nhung nhớ đến vô vàn
thôi hãy nén nỗi đau ngày ly biệt
biết đâu chừng gặp lại giữa trần gian

Lời cuối cùng ba để lại các con
hãy biết sống cuộc đời thanh bạch
tiền tài lợi danh đều không có thực
sống thật thà đời sẽ vui hơn

Mẹ các con từng xẻ thịt banh da
dòng sữa ngọt nuôi các con khôn lớn
hãy nhớ ngôi nhà các con đã ở
hãy thuận hòa từ ruột mẹ sinh ra

Cuộc sống các con từ nguồn cội ông cha
hãy khắc cốt ghi tâm lời ba dặn
dù cơm áo dù biển dâu dời đổi
trong tim các con không mất bóng quê nhà

Dù đường đời có trăm phương nghìn ngã
nơi ra đi chính là chốn quay về
cuộc sống này có trăm nghìn dấu hỏi
các con tự trả lời bằng chính các con thôi

Những lời ba để lại các con vô cùng giản dị
như bông hoa mỗi sáng nở trong vườn
hãy chăm bón cho cuộc đời tươi tốt
gỗ mục nào không có dấu trầm hương


NGUYỄN MIÊN THẢO
19.8.46 - 19.8.2010

CAO HUY KHANH - VIỆT NAM HỒ SƠ HẬU CHIẾN ( KỲ 33 )

CAO HUY KHANH
VIỆT NAM
HỒ SƠ HẬU CHIẾN

1975 - 2010
NHỮNG SỐ PHẬN KỲ LẠ
Kỳ Ba Mươi Ba

331 - Lò Văn Cân
LIỆT SĨ SỐNG LẠI 13
Nông dân sinh 1941 tại Thanh Hóa. Sống ở Thanh Hóa (2010).
Năm 1962 lúc 21 tuổi lên đường vào Nam chiến đấu để lại ở quê nhà người vợ mới cưới. Năm 1968 về phép để lại một bào thai trong bụng vợ rồi lại quay lại chiến trường miền Nam hẹn ngày chiến thắng sum họp gia đình nhìn mặt con.
Nhưng từ đó… biệt tích luôn kể cả sau ngày thống nhất đất nước. Mãi đến năm 1992 mới chính thức có giấy báo tử ghi hy sinh ở miền Nam. Người vợ buồn rầu nhuốm bệnh qua đời, chỉ còn đứa con trai duy nhất lo bương chải với cuộc sống mồ côi.
Thực tế thì người liệt sĩ này… vẫn còn sống nhưng ở nơi xa xăm tận bên… nước bạn Lào. Nguyên do từ năm 1969 với chức vụ tiểu đoàn phó, ông đã được điều qua mặt trận Lào và đến cuối năm này thì trong một trận đánh đã bị thương nặng phải cưa đứt nửa chân phải. Thế rồi trong thời gian điều trị lại bị địch tấn công khiến bị lạc đơn vị, trên đường trốn thoát kiệt sức ngã quỵ nằm thoi thóp chờ chết trong rừng sâu.
May sao được người dân Lào đi rừng tìm thấy mang về bệnh viện cứu chữa rồi đưa về nhà dưỡng bệnh. Thế rồi tại đây được một cô gái Lào – cũng là một trong những người cứu mạng mình – phải lòng lấy làm chồng. Từ đó ở lại luôn trong bản làng làm nông dân sinh được 3 con.
Bản thân vẫn nhớ quê hương song hoàn cảnh nông dân Lào quá nghèo khó, đường xá xa xôi không tiền bạc làm sao tìm đường về quê được. Đã vậy, người vợ lại mắc bạo bệnh qua đời sớm khiến mình phải gồng gánh cảnh gà trống nuôi con nên giấùc mơ quy cố hương ngày càng xa vời.
Mãi đến năm 2010, tình cờ một người dân Nghệ An vào nơi đây tìm mua hàng hóa về bán, đôi bên gặp gỡ nhau nhận đồng hương mới nhờ người đó về quê Thanh Hóa dò hỏi tin tức gia đình mình. Vị ân nhân tốt bụng này cuối cùng đã tìm gặp được người con trai đang sống ở quê cũ mới báo tin để con qua Lào đón cha về.
Thế là rốt cuộc người cựu binh sau 40 năm lạc loài bấy giờ mới tìm được đường về quê cũ trong cảnh tan nát cõi lòng người vợ thân yêu đã ra đi từ lâu. Chỉ còn niềm an ủi là 4 anh em 2 dòng máu Việt – Lào nay mới biết mặt nhau…

332 - Nguyễn Đình Yên
LIỆT SĨ SỐNG LẠI 14
Bộ đội phục viên sinh tại miền Bắc. Sống ở miền Bắc (2009).
Bộ đội chiến đấu trên mặt trận Quảng Trị, vào giữa năm 1967 bị thương nặng cố lết vào nhà một cặp vợ chồng du kích xã nhờ cứu giúp.
Đôi vợ chồng này đúng vào ngày hôm đó mới làm lễ cưới đã sẵn lòng nhường cả chiếc giường tân hôn cho người thương binh nằm rồi tìm cách băng bó vếùt thương. Sau đó đào hầm bí mật để đưa xuống trốn kẻ địch săn lùng. Người vợï bị địch bắt tra khảo tìm tông tích kẻ thù nhưng chị kiên cường không hé miệng.
Được nuôi giấu dưới hầm một tháng thì được cơ sở liên lạc đưa đi tìm trả về đơn vị cũ. Trước khi đi, đôi bên kết nghĩa anh em hẹn ngày hòa bình gặp lại.
Nhưng khi người thương binh vừa được cơ sở đưa đi thì địch tấn công, sau đó nghe nói là tất cả bị rơi vào ổ phục kích chết hết! Cả 2 vợ chồng đau buồn, thương người anh em vừa kết nghĩa phần số vẫn chưa hết xui xẻo nên lập một bàn thờ trong vườn ngày đêm nhang khói tưởng niệm.
Gần 30 năm như vậy cho đến một ngày cuối năm 2004 bỗng nhiên nhận được một lá thư như gửi tới từ… âm phủ chính là thư của người liệt sĩ thờ trong vườn từ miền Bắc gửi vào tìm 2 vợ chồng ân nhân! Không chỉ một lá mà là cả một… đống thư kể từ sau ngày gải phóng, hầu như mỗi tháng một lá.
Thì ra người thương binh kia một lần nữa lại thoát chết qua trận phục kích, được đưa ra Bắc rồi cho xuất ngũ. Đến sau 75, anh đã liên tục gửi thư vào Quảng Trị tìm ân nhân song do địa chỉ và tên ân nhân không rõ ràng (lúc đó chỉ biết bí danh) nên toàn bộ thư từ thất lạc, một thời gian dài mới tìm được đúng địa chỉ.
Cuộc hội ngộ đã diễn ra trong nước mắt xen lẫn nụ cười, chỉ tiếc vắng mặt người vợï dũng cảm năm nào đã sớm qua đời vì bệnh tật do di chứng đòn tra khảo ngày xưa để lại.

333 - Nguyễn Thị Hạnh Nhơn
CỨU TRỢ THƯƠNG PHẾ BINH CHẾ ĐỘ CŨ
Nhà hoạt động xã hội Việt kiều sinh 1928 tại Huế. Sống ở Mỹ (2010).
Cựu trung tá nữ quân nhân chế độ Sài Gòn sau khi đi cải tạo về qua Mỹ năm 1995 trở thành người đi tiên phong khởi xướng và vận động phong trào đóng góp gửi về quê nhà giúp đỡ gia đình thương phế binh, cô nhi quả phụ chế độ cũ mà đương nhiên chế độ mới cộng sản chẳng ngó ngàng gì tới (cũng phải thôi bởi phần họ lo cho số lượng khổng lồ thương binh liệt sĩ và nạn nhân CĐDC của mình còn không xuể nữa là!).
Năm 1997 tham gia thành lập Hội Cứu trợï Thương phế binh và quả phụ VNCH và trong hơn 13 năm qua đã vận động hơn 11.000 mạnh thường quân khắp các nước góp tiền (tổ chức thêm các đại nhạc hội quyên tiền) gửi về giúp khoảng 19.000 gia đình thương phế binh và cô nhi quả phụ chế độ cũ (riêng trong 2 năm 2008 – 2009 tổng thu được 1,7 triệu USD). Làm việc không ăn lương, lấy nhà mình làm văn phòng hội để tiết kiệm chi phí.
Từ năm 2006 được bầu làm Chủ tịch Hội và đến năm 2009 dù đã 82 tuổi vẫn được tín nhiệm giữ chức này. Vẫn cặm cụi làm việc ngày 8 tiếng lo cho công tác hội vì tâm nguyện “Tôi tự nghĩ mình còn hạnh phúc hơn nhiều người khác đang cần giúp đỡ nên còn thở là còn làm việc.”

334 - Nguyễn Thị Hồng
NẠN NHÂN CĐDC LÊN TIẾNG TRÊN ĐẤT MỸ
Công chức về hưu sinh 1947 tại Đồng Nai – Mất 2007 ở Đồng Nai (61 tuổi).
Năm 1961 tham gia chiến đấu chống Mỹ ở miền Đông Nam bộ trong bộ phận hậu cần. Năm 1970 bị trọng thương phải cắt một nửa cánh tay trái. Bắt đầu nhiễm CĐDC mà không biết, dấu hiệu đầu tiên là năm 1968 lập gia đình và có mang con đầu lòng thì bị sẩy thai.
Sau 75 chuyển qua làm công chức làm công việc kế toán ở TPHCM. Sinh được 3 con đều đẻ non, thiếu cân, lớn lên thường xuyên đau ốm trong đó có một em mắc bệnh tim bẩm sinh.
Sức khoẻ ngày càng yếu nên năm 1984 xin về hưu non, sau đó được xác định bị di chứng CĐDC với một loạt bệnh hiểm nghèo tàn phá cơ thể: Thiếu máu não, cao huyết áp, suy tim, chân sưng phù lở loét cả tay, xơ gan, đau dạ dày, túi mật và bàng quang bị sỏi, giản tĩnh mạch chi, rối loạn đông máu… Đã phải mổ lá lách và dạ dày. Riêng ung thư vú dù được giải phẫu năm 2002 nhưng vẫn di căn qua xương và vết thương không ngớt rỉ máu hàng ngày…
Phải bán nhà ở TPHCM để lấy tiền chạy chữa rồi cả gia đình chuyển về sống ở Biên Hòa.
Dù vết mổ ngực vẫn còn rỉ máu vẫn cắn răng ngồi xe lăn cùng Đoàn VN đi Mỹ năm 2007 để có mặt trong phiên toà VN kiện các công ty hóa chất Mỹ về việc rải CĐDC trong chiến tranh VN với tư cách nhân chứng. Chồng con can ngăn không muốn cho đi sợ sẽ chết lúc nào không biết trên xứ người nhưng vẫn kiên quyết đòi đi: “Đâu phải chỉ đấu tranh cho bản thân mình, đâu phải chỉ đấu tranh cho con gái mình đang bệnh tật. Nước mình còn hơn 3 triệu nạn nhân… Hãy cho tôi đi!”
Trong thời gian ở Mỹ phải liên tục thay bông băng cầm máu ở ngực và cả vào bệnh viện truyền máu cấp cứu nữa.
Trở về từ phiên toà – thua kiện - ở Mỹ được 3 tuần thì qua đời không kịp thực hiện nguyện vọng “Chị đã cắt lá lách, dạ dày rồi. Đợt tới về còn gì cắt được là chị sẽ cắt nốt cho nhẹ gánh. Nhẹ gánh rồi chị sẽ tiếp tục chiến đấu đòi công lý.”
Đám tang phải mượn trụ sở khu phố để cử hành vì không có nhà riêng, lâu nay phải ở nhà thuê.

335 - Nguyễn Thị Kết
NHỐT CON ĐIÊN 1
Nông dân sinh 1940 tại Quảng Ngãi. Sống ở Quảng Ngãi (2008).
Trong kháng chiến chống Mỹ có chồng là liệt sĩ, bản thân cũng là thương binh.
Sau 75 một mình nuôi 3 con, một con trai đã vào Nam làm lụng, một con gái lấy chồng ở riêng. Còn một con gái đến năm 20 tuổi bỗng nhiên mắc bệnh tâm thần hay quậy phá và bỏ nhà đi lang thang vất vưởng. Đã đưa con đi nhiều nơi tìm cách chữa bệnh ròng rã trong 2 năm trời song chẳng kết quả mà ngày bệnh càng nặng hơn.
Cuối cùng từ năm 1985 không còn cách nào hơn là đành… nhốt con vào một căn phòng ở sau nhà rộng chỉ 4m2, suốt ngày ngồi và nằm trên chiếc chõng tre, tay chân xích vào song cửa!
Có như vậy mẹ già mới rảnh tay nai lưng còm cõi làm lụng tiếp tục kiếm cơm nuôi con tâm thần sống được ngày nào hay ngày nấy…

336 - Nguyễn Thị Kim Liên
GIỌT LỆ NỮ TÙ
Cán bộ về hưu sinh 1941 tại Long An. Sống ở TPHCM (2008).
Hoạt động cách mạng sôi nổi từ thời trẻ, toàn tâm toàn ý cống hiến nên gạt qua một bên chuyện tình cảm yêu đương sợ ảnh hưởng đến công tác. Đến năm 27 tuổi bị bắt ở tù 8 năm trong đó có 4 năm Côn Đảo.
Giải phóng ra tù thì đã hơi quá lứa lại thêm bệnh tật di chứng tra tấn nhà tù để lại trong lúc vẫn làm việc cho hội phụ nữ nên đường chồng con xem như đã lỡ để qua rồi.
Sau khi về hưu phải làm thêm nhiều nghề lao động phụ mới đủ sống như trông trẻ, nấu ăn. Nhà cũng không có mà ở phải lang thang sống nhờ nhà bạn bè.
Trải qua 11 năm mệt mỏi như vậy, đến năm 1999 khi tuổi già kéo đến biết không trụ nổi nữa mới xin vào Trung tâm Dưỡng lão Thị Nghè ở TPHCM gửi nhờ kiếp sống đơn côi những ngày cuối đời.
Một nữ chiến sĩ kiên cường trong nhà tù vậy mà giờ đây có lúc không ngăn nổi giọt lệ tủi thân: “Mình đâu muốn nằm ăn không ngồi rồi… Ước gì mình cũng có con thì giờ đâu côi cút thế này…”

337 - Nguyễn Thị Kim Loan
MỘT MÌNH NUÔI CON LỚN LÊN LÃNH ÁN TỬ HÌNH
Thường dân Việt kiều sinh khoảng 1958 tại Việt Nam. Sống ở Uùc (2005).
Năm 1980 vuợt biên vào trại tị nạn Thái Lan.
Tại đây có thai với một người đồng hưong cũng vượt biên sinh được 2 trai song sinh. Nhưng sau đó bị người tình bỏ rơi để qua định cư ở Mỹ, còn mình và 2 con nhập cư Úc.
Trên đất Úc năm 1987 lấy chồng lại nhưng không được bao lâu thì ly dị vì thấy người chồng mới ghét bỏ hành hạ 2 con đời trước của mình. Từ đó một mình bươn chải nuôi con, riêng người cha ruột ở Mỹ thì chỉ có một lần qua thăm năm 2002 rồi… biệt tích luôn!
Hai đứa con trai sống với mẹ trong hoàn cảnh khó khăn không được giáo dục đầy đủ nên lớn lên đều bỏ học, đứa em đi bụi đời theo băng xã hội đen khiến phải nhiều lần vào tù ra khám, rượu chè cờ bạc nợ nần. Đứa anh thì trái lại rất thương em nên nhiều lần phải nai lưng ra trả nợ giùm em.
Chính vì phải trả nợ cho em một món lớn mà cuối năm 2002, người anh nhận lời vận chuyển ma tuý cho bọn mafia Trung Quốc từa Úc bay qua Campuchia nhận hàng đem về Úc quá cảnh Singapore và không may tại Singaore bị bắt với tang chứng 396,2 gram heroine mang theo.
Sau 3 năm điều tra, toà án Singapore ra phán quyết tử hình bằng treo cổ, lúc đó người con này mới 25 tuổi. Nhiều lời phản đối án treo cổ và khẩn cầu giảm án từ các tổ chức nhân quyền lẫn Thủ tướng ở Úc đương nhiệm đều bị bác bỏ do luật Singapore xử rất nặng tội này, chỉ cần giữ trái phép hơn 15gr heroine là tử hình rồi.
Người mẹ – và đứa em – chỉ còn cách bay đến Singapore nhận xác con, mẹ xin được ôm con lần cuối cùng cũng không được. Đến chuyện mang xác con về Úc không đủ tiền lo chi phí phải nhờ ông chủ trại hòm Singapore cám cảnh giúp đỡ.

338 - Nguyễn Thị Lan
GẶP NGƯỜI BẮN CHẾT CHA MÌNH
Thường dân sinh 1960 tại Hà Tây. Sống ở Hà Tây (2000).
Năm 1967 mới lên sáu tuổi được bố đưa đi chụp một tấm ảnh cùng bố để kỷ niệm trước ngày bố vào Nam chiến đấu. Nhưng chỉ một năm sau thì bố hy sinh mà tấm hình kia cũng bị thất lạc gia đình không còn giữ lại được nên chỉ còn nhớ man mán về gương mặt ngườì cha thân yêu.
Không ngờ 33 năm sau tấm ảnh kia – duy nhất còn lại – được một cựu binh Mỹ tìm đến tận nhà trao lại mà ấy lại chính là người đã tự tay bắn chết cha mình trên chiến trường!
Người lính Mỹ đó – tên Rich Luttrell – mới 18 tuổi khi hạ sát người cha bộ đội kia trong một trận phản phục kích năm 1968, sau đó khi lục tìm chiến lợi phẩm đã thấy và giữ lại cho riêng mình tấm ảnh 2 bố con kể trên cất trong ví của chiến sĩ bộ đội. Không ngờ tấm ảnh đã trở thành một mối ám ảnh ác mộng cho anh ta cả khi bị thương được xuất ngũ trở về Mỹ.
Ấy là mặc cảm tội lỗi dày vò anh liên tục nhiều năm trời, mặc cảm chua xót đã làm chia lìa tình cha con đối với một cô bé vô tội nhất là mỗi khi nhìn vào ảnh tới mức đã thề không bao giờ đặt chân trở lại VN nữa. Không sao quên lãng nổi dù đã có lần muốn vứt bỏ nó dưới chân Bức tường đen tưởng niệm tử sĩ Mỹ trong chiến tranh VN dựng tại thủ đô Washington kèm theo lá thư “Xin ông tha thứ cho tôi”. Nhưng sau đó như một phép lạ ma quái tấm ảnh vẫn trở về lại với mình sau khi đã được in trên một tập sách.
Cuối cùng theo lời khuyên của bạn bè đã quyết định chỉ có cách kết thúc mối ám ảnh đau thương này là tìm cách trả ảnh lại cho chủ nhân kế thừa nó chính là bé gái trong ảnh. Bằng cách nhờ toà Đại sứ VN liên hệ tìm thân nhân cửa hai ngươì trong ảnh và kết quả là tìm được tông tích người con gái đó nay đã 40 tuổi với lá thư hồi âm không tưởng tượng nổi: “Đứa nhỏ mà ông đã chăm sóc qua tấm ảnh trong hơn 30 năm qua bây giờ đã trưởng thành rồi. Đứa trẻ đó đã trải qua nhiều đau khổ trong thời thơ ấu vì mất bố, nhớ thương bố… Tôi hy vọng ông sẽ đem lại niềm vui và hạnh phúc cho gia đình tôi…”
Thế là năm 2000 dù vẫn lo sợ bị trả thù - “Thà phải ra trận còn hơn đi gặp cô gái này!” - người cựu binh Mỹ vẫn xóa bỏ lời thề cũ để quay lại VN tìm đến tận nhà kẻ mình đã sát hại năm xưa để trả lại tấm ảnh định mệnh với câu nói bập bẹ tiếng Việt đã học sẵn: “Hôm nay tôi trả lại tấm ảnh của cô và cha cô mà tôi đã giữ 33 năm. Xin tha thứ cho tôi.”
Cô gái năm xưa đó từ một phản ứng bản năng lạ lùng tự nhiên đã ôm chầm lấy “kẻ thù” vừa khóc vừa gọi “Bố, bố!” như thể đó là cha mình trở về trong hình hài một ngườì khác lại là kẻ đã giết chết cha mình! Như thể một phản ứng bản năng thâm sâu bị thúc đẩy bởi một hồn ma quanh quẩn lâu nay hằng ngóng đợi phút giây này. Sự tha thứ vô biên nói nên lời như thế như đã ban phước lành giúp xoá tan mặc cảm đăng đẳng hàng chục năm trời trong tâm hồn người lính Mỹ.
Bức ảnh được trang trọng đặt lên bàn thờ với nén hương do “kẻ thù” thắp lên cầu nguyện. Rồi người cựu binh Mỹ ràn rụa nước mắt ra đi với một lương tâm từ nay đã tìm lại được sự bình yên vĩnh viễn.

339 - Nguyễn Thị Lanh
CƯỚI VỢÏ CHO CHỒNG
Thường dân sinh tại Thái Bình. Sống ở Thái Bình (2006)
Nữ thanh niên xung phong thời chống Mỹ, sau 1975 mất sức lao động 41% trở về quê làm nông.
Lấy chồng sau 2 lần sinh con đều bị hư thai do ảnh hưởng CĐDC bèn tự đi hỏi vợ khác cho chồng để chồng có con nối dõi. Lo liệu mọi việc xong xuôi rồi thì xin ly hôn để chồng và vợ mới an tâm sống hạnh phúc vì “Một mình chịu khổ là quá đủ rồi, không thể làm liên lụy đếùn người khác.”

340 - Nguyễn Thị Lia
3 CHỊ EM SUÝT TỰ TỬ
Người khuyết tật sinh 1970 tại Cà Mau. Sống ở Cà Mau (2007).
Là con thứ tư trong gia đình 8 con, cha mẹ đều tham gia kháng chiến chống Mỹ ở bưng biền. Sinh ra bị di chứng CĐDC nên tay chân và thân mình mềm oặt, ngắn cũn cỡn, cao chỉ chừng 0,8cm.
Không chỉ một mình mà 2 người em gái kế cũng gặp tình trạng tương tự. May chỉ người em trai út là mạnh khoẻ bình thường.
Hồi nhỏ đi học phải nhờ cha cõng đi nhưng cả ba cũng chỉ học tới lớp 2 và lớp 4 là thôi do vừa đi đứng khó khăn mà lại gia cảnh quá nghèo.
Rồi cha qua đời, mẹ bệnh nằm liệt giường, được ít công đất cũng đành phải đem đi cầm cố lo thuốc men và cái ăn. Có lúc quá tuyệt vọng đã cùng 2 em đồng cảnh ngộ ôm nhau khóc định uống thuốc trừ sâu chết cho rồi, may sao đứa em trai phát hiện can ngăn kịp.
Vì tình thương với mẹ và đứa em trai còn lại tự nguyện đi làm thuê làm mướn nuôi cả nhà mà 3 chị em nay xấp xỉ trên dưới 30 tuổi nghĩ lại chấp nhận sống tiếp, cố gắng tìm hướng vươn lên.
Bản thân muốn làm thợ may đã tự mày mò cắt vải và may bằng tay cả tuần mới xong một bộ đồ. Cô em kế mong được làm nhạc sĩ xin được một cây đàn cũ tự học qua đài đã đàn được trọn bài vọng cổ. Còn cô em áp út thì mơ ước thành họa sĩ để vẽ lại cảnh đời của chị em mình và bao người là nạn nhân chiến tranh đang chờ bàn tay ai nâng đỡ để có thể đứng dậy với cuộc đời rộng lớn bên ngoài.
(Còn tiếp)

VÔ CÙNG THƯƠNG TIẾC LÊ HỮU TIẾN


CHIA BUỒN VỚI GIA ĐÌNH,
HÒA VÀ CÁC CHÁU

nguyễn văn trai - viêm tịnh -
nguyễn miên thảo - văn viết lộc

GHEN

Anh ghen cái chỗ em ngồi
Ghen bàn ghen ghế, ghen trời ghen mây
Anh ghen ngọn gió lắt lay
Anh ghen cả giọt mưa bay cuối trời
Anh ghen em đến rã rời
Ghen giường ghen chiếu ghen nơi em nằm
Ghen em giọt lệ âm thầm
Anh ghen cả những đêm rằm nguyên tiêu
Ghen em cái nét yêu kiều
Anh ghen em cả những điều lo toan
Anh ghen cây cỏ bên đường
Ngó chân em bước mơ màng cái chi
Ghen từ đôi guốc em đi
Ghen luôn giọng nói nhu mì người dưng
Anh ghen con muỗi trong mùng
Cứ tìm mọi cách đến gấn bên em
Ghen ngày rồi lại ghen đêm
Ghen cho đá cứng đến mềm mới thôi
Ghen từ khóe mắt, bờ môi
Sợ em cả nể nói lời đẩy đưa
Anh ghen ghen mấy cho vừa
Sáng ngồi chiều đứng buổi trưa ghen nằm
Anh ghen như thể con tằm
Tháng ngày cần mẫn âm thầm nhả tơ
Ghen em ghen đến bơ phờ
Ghen chi sớm ngẩn chiều ngơ thế này
Thánh thần,Phật Chúa bó tay
Lời kinh tiếng kệ đổi thay được gì
Anh là một gã tình si
Ghen em đọa xuống A tỳ cũng vui
Anh ghen cả những nốt ruồi
Trong em nó đứng nó ngồi ở đâu

Tình yêu vốn rất nhiệm mầu
Ghen em như tiếng kinh cầu thủy chung.
NGUYỄN MIÊN THẢO

ĐIỀU ƯỚC ĐÃ THÀNH SỰ THỰC


Trên Báo Thanh Niên chủ nhật (ngày 11.7.2010) có đăng bài viết Những câu thơ và 3 điều ước(HTTV đăng lại), nói về trường hợp cảm động của Nguyễn Văn Hợp - một chàng trai ở thôn Mê Linh 2, xã Buôn Triết, huyện Lăk (Đắk Lắk), bị teo cơ toàn thân. Hợp có 3 điều ước: hiến giác mạc (đã hoàn tất thủ tục), hiến xác cho khoa học và in một tập thơ với bút danh là Huệ Nguyên...
Xúc động trước nghịch cảnh của anh, nhiều bạn đọc hảo tâm đã liên hệ với Báo Thanh Niên để góp phần giúp đỡ Hợp hoàn thành tâm nguyện. Đặc biệt nhà thơ Phan Trung Thành và bạn của anh là nhà doanh nghiệp Nguyễn Minh Công đã tích cực làm việc với NXB Văn Nghệ, và tập thơ Thơ và Tôi của Huệ Nguyên đã ra đời nhanh chóng (chỉ trong vòng 20 ngày cuối tháng 7.2010).
Bìa tập thơ do An Quốc Bình (một người bạn của Hợp) vẽ. Ngay lập tức, nhà thơ Phan Hoàng đã thay mặt Quỹ Tình thơ mua 100 cuốn (trị giá 3,5 triệu đồng).
H.Đ.N

LẠI NÓI CHUYỆN CHỮ NGHĨA

Gần đây trên các báo có nhiều bài về chủ đề nói, viết, tiếng Việt. Một lãnh đạo Bộ GD-ĐT cũng đã lên tiếng nêu rõ các chữ cái A, B, C... của ta đọc là a, bê, xê... còn các âm bờ, cờ... chỉ là để dùng dạy trẻ đánh vần (hoàn toàn không phải là tên gọi của các mẫu tự).
Thế nhưng trên các đài phát thanh, truyền hình, các phát thanh viên vẫn đang thoải mái đọc "o, rơ, gờ" (cho org), "mờ, u" (cho MU), "gờ 8" (cho G8)... Lẽ nào sửa sai khó thế sao? Cứ thế chẳng lẽ ta vẫn vô tư đọc GMT, GDP, BGI... là "gờ mờ tờ, gờ đờ bờ, bờ gờ i" sao? Thử đọc bảng hiệu "M & toi" là "mờ và toi" thì bao dụng công chơi chữ đều... toi cả!
Đó là báo nói, còn báo viết? Các phóng viên cũng hay đặt ra những từ mới tối nghĩa, dùng từ Hán - Việt không cần thiết và không đúng cách. Ví dụ: Đề cập tới đồ mặc bên trong, tiếng Việt có sẵn từ "đồ lót" rất rõ ràng, đủ nghĩa, thuần Việt, nhưng nhiều người vẫn sính từ Hán-Việt "nội y".
Rồi thì i ngắn y dài. Đã có người chơi "Chiếc nón kỳ diệu" mất thưởng vì đoán từ "bác sĩ" (trong khi đáp án là "bác sỹ"). Sao lại như thế nhỉ, khi viết "kẻ sĩ", "sĩ phu" ngắn cũng được thì các sĩ khác như "bác sĩ", "nghệ sĩ" cũng ngắn được chứ?
Tuy nhiên hiện nay, viết i hay y chỉ là thói quen, ai thích viết gì cứ viết, rất nên được thống nhất bằng một quy định chung của cấp thẩm quyền cao nhất.
Có những trường hợp dùng từ sai thật đáng tiếc và đáng trách! Xin được kể: một từ mà báo chí đã nhiều lần nhắc nhở nhưng vẫn mắc phải như từ cứu cánh, một số người vẫn dùng để chỉ điều gì đó (hoặc ai đó, vật gì đó...) giúp mình thoát khỏi tình huống khó khăn (hoặc nguy hiểm, ngặt nghèo...). Những người này chắc hiểu: cứu là giúp, giải thoát; cánh sẽ giúp bay lên... Trời ạ! Không phải đâu! Tra bất cứ từ điển tiếng Việt nào, ta sẽ dễ dàng thấy cứu cánh có nghĩa là mục đích sau cùng. Từ khác cũng hay được dùng sai là vị tha. Nhiều người dùng vị tha để chỉ đức tính dễ tha thứ (rõ ràng họ đã "hiểu" tha là tha thứ). Thật ra đây là từ Hán - Việt nghĩa rất rõ ràng là vì người khác (vị là vì; tha là người khác), trái ngược với vị kỷ là chỉ vì mình.

NGUYỄN CHÍ ANH
(Thanh Niên Online)

ÓNG MÙA TƠ LỤA

Tháng tám trời mềm như mây
thêm dăm sợ khói như ngày cố hương

đêm khuya rủ ngọn đèn đường
giang hồ một chuyến để yêu thương người

giang hồ ra một trận cười
dấu răng một vết để người ngồi đau

giang hồ chi áo xưa nhàu
mùa hương còn lại một câu rất tình

Tháng này còn nắng lung linh
riêng T còn lại một thinh không sầu...

ĐÔNG HÀ

CAO HUY KHANH - VIỆT NAM HỒ SƠ HẬU CHIẾN ( KỲ 32 )


CAO HUY KHANH
VIỆT NAM
HỒ SƠ HẬU CHIẾN

1975 - 2010
NHỮNG SỐ PHẬN KỲ LẠ
Kỳ Ba Mươi Hai

321 - Đỗ Nguyễn
13 NĂM CHẠY THẬN VẪN VIẾT
Thường dân tên thật Đỗ Thanh Lịch. Sống ở TPHCM (2010).
Cựu chiến binh dường Trường Sơn sau 75 xuất ngũ về đời thường cặm cụi làm ăn nuôi vợ con.
Đến năm 1997 phát hiện bị suy thận phải chạy thận hàng tuần. Lúc đó mới có thời gian rảnh quyết tâm thực hiện một ấp ủ lâu nay, một việc chưa từng làm là viết truyện kể lại cuộc đời mình từ thời chống Mỹ gian khổ đến những biến động xã hội gay gắt thời hòa bình sau đó. Tác phẩm hoàn thành trên giưòng bệnh mang tên “Số và Phần” đã được xuất bản dưới bút danh Đỗ Nguyễn.
Và cây bút nghiệp dư này chưa có vẻ sẽ ngừng ở đây: “Tôi sẽ viết tiếp về những đồng đội tôi, những ngươì đã mãi mãi nằm lại nơi chiến trường và những người còn ở lại… Còn hơi sức ngày nào tôi sẽ cố viết ngày đó vì hơn ai hết, tôi biết mình có thể ra đi bất cứ lúc nào...”

322 - Giao Tiên
NHẠC SĨ “BÁNH CHƯNG”
Nhạc sĩ Giao Tiên ở tuổi 70 (ảnh do nhân vật cung cấp)
Nhạc sĩ tên thật Dương Trung sinh 1940 tại miền Nam. Sống ở Cam Ranh, Khánh Hòa (2010).
Thời còn học sinh từng bị chính quyền Ngô Đình Diệm bắt giam vì có liên hệ với một người anh hoạt động cách mạng, rồi trong tù được một người tù tình nghi Việt Cộng dạy cho về nhạc lý căn bản. Sau đảo chính chế độ Diệm, năm 1964 được ra tù rồi bị bắt đi lính ngành quân nhu.
Trong thời gian làm lính hành chánh bắt đầu viết nhạc – lấy tên tác giả Giao Tiên - theo khuynh hướng ảnh hưởng dân ca Nam bộ, chất nhạc trữ tình trong sáng với ca từ mộc mạc mà ý nhị. Từ đó tạo nên một phong cách riêng được quần chúng bình dân ưa thích với những ca khúc gây được ấn tượng như “Cô Thắm về làng”, “Tình đẹp mùa chôm chôm”, “Quán gấm đầu làng”, Vó ngựa trên đồi cỏ non”…
Sau 75 trước thời thế thay đổi liền quyết định chấm dứt sáng tác để đưa cả gia đình đi kinh tế mới ở Sông Bé. Nhưng sau 10 năm cày cuốc tập làm nông dân hoàn toàn thất bại đành một lần nữa dẫn vợ con lưu lạc lên Lâm Đồng làm nghề nấu đường và lấy mật đường nấu rượu. Vẫn chẳng khấm khá gì mới chuyển qua trồng rau màu cũng không đi đến đâu. Bấy giờ vào năm 1989 có phong trào nuôi tôm bèn di cư di canh xuống Cam Ranh học làm theo, kết quả… vỡ nợ đùm đìa phải bán hết trả nợ.
Đang lúc hết đường làm ăn thì may sao phát hiện ra một nghề đơn giản mà có ăn dễ sống hơn là nghề làm bánh chưng, vợ gói bánh cho chồng nấu rồi chồng đạp xe đi bỏ mối hoặc bán dạo. Nhờ vậy mà cả gia đình mới trụ được, con cái mới có tiền ăn học.
Suốt cả quảng thời gian dài đó gần 20 năm gần như không ngó ngàng gì đến âm nhạc với sáng tác gì nữa đồng thời cũng gần như cắt hẳn liên lạc với bạn bè ở Sài Gòn nên người ta tưởng nhạc sĩ đã… chết hoặc vượt biên mất tích. Vì vậy nhiều người trong nước lẫn ở nước ngoài – toàn là bạn bè, người quen – đã tha hồ … ăn cắp nhạc Giao Tiên thu băng, thu đĩa kinh doanh hốt bạc mà không ghi tên tác giả, thậm chí còn đổi tên tác giả thành tên mình nữa! Có người một mình đã “mượn” đến… 90 bài hát của ông.
Vậy mà bản thân tác giả chẳng biết gì bởi đang bận đầu tắt mặt tối lo chuyện cơm áo gạo tiền làm và bán bánh chưng, lại ở nơi xa xôi thiếu thông tin. Mãi đến năm 1993 mới phát hiện mình trở thành nhạc sĩ… bị ăn cắp bản quyền nhiều nhất nước! Và cuộc phát hiện đó cũng là nhờ nghề bánh chưng khi đạp xe đi bán bánh chưng thì tình cờ nghe một bạn đồng nghiệp bán kem dạo phát loa mở nhạc rao hàng trong đó có… bài của mình mà mình chẳng hề biết ất giáp gì cả!
Thế là lâu rồi mới vào lại Sài Gòn đi khiếu nại lấy lại được chút ít tiền bản quyền, cũng rất khó khăn nhất là đối với các ông trùm ca nhạc hải ngoại. Từ đó chuẩn bị ra mắt một tuyển tập nhạc 70 bài (trong tổng số sự nghiệp hàng trăm bài) vào giữa năm 2010 kỷ niệm tuổi thất thập.

323 - Hồ Văn Thương
NGHÈO QUÁ THÀNH… QUẢN TRANG LIỆT SĨ ĐIỂN HÌNH
Nông dân sinh tại Bến Tre. Sống ở Long An (2010).
Nông dân nghèo bao đời nay lại đùm đề vợ con (7 đứa) sau 75 không sao ngóc đầu dậy nổi nên năm 1989 dắt díu bầu đoàn vào vùng Đồng Tháp Mười ở Long An hy vọng kiếm đất cày cấy mong sao cho khá hơn chút đỉnh. Nhưng không vốn liếng lại không rành trồng lúa do xưa nay ở quê chỉ chuyên trồng… dừa nên thất bát liên tục, đã nghèo càng nghèo hơn.
May sao lúc đó huyện Thạnh Hưng đang khuyết một chân quản trang nghĩa trang liệt sĩ huyện nên có người thương tình giới thiệu cho làm. Vậy là làm tốt bởi đây như một nghề “không vốn”, từ đó dù ăn lương chỉ một suất mình song cả vợ con đều xúm vào lo công việc chăm soc nghĩa trang mới xuể vì nghĩa trang rộng 6 hécta với hơn 2.000 ngôi mộ (trong đó hơn 1.000 mộ vô danh, khoảng trên 700 mộ liệt sĩ gốc miền Bắc). May là năm sau đó bà vợ cũng được cấp cho biên chế thêm một suất nữa.
Từ đó cả gia đình tối ngày bám nghĩa trang riết thành quen thành ra gắn bó, góp công sức biến nơi đây thành nghĩa trang đẹp nhất tỉnh.
Chẳng những thế, bản thân bỗng nhiên cũng ham mê công việc làm phụ thêm là… đi tìm hài cốt liệt sĩ trong vùng để quy tập về nghĩa trang “của mình”! Làm rất tận tụy như có lần nhận một hài cốt liệt sĩ không đầu do máy xúc đất làm đường đào được liền đi tìm đến đoạn đường mới đổ đất tráng nhựa xong tự bỏ tiền túi đề nghị xới lại khúc đường đó để tìm xương sọ liệt sĩ và quả là đã tìm được.
Tâm sự xem nghĩa trang như nhà mình nên rất muốn gặp “ma” liệt sĩ nhưng chưa bao giờ gặp cả!

324 - Meyung Robson
TỪ HOA HẬU ĐẾN… ĐẶC VỤ FBI
Việt kiều chủ nhà hàng tên cũ Mỹ Dung sinh 1952 tại VN. Sống ở Thái Lan (2009).
Năm 1970 đang là sinh viên ĐH Luật ở Sài Gòn đã dự một cuộc thi hoa hậu và giành vương miện nữ hoàng sắc đẹp.
Năm 1975 cùng cha mẹ di tản qua Mỹ.
Tại đây tiếp tục học luật ở ĐH New York và ở trường đã quen một bạn học vốn là nhân viên FBI cơ quan an ninh liên bang đầy quyền lực nổi tiếng. Nhờ đó bắt đầu làm thêm việc dịch thuật các tài liệu tiếng Việt cho FBI rồi dần dần được giới thiệu thi tuyển vào cơ quan này.
Năm 1978 được FBI chấp nhận tuyển dụng nhưng không phải vào bộ phận phiên dịch như nguyện vọng mà lại điều chuyển qua làm… đặc vụ chuyên phá án trong nước. Có lẽ vì thấy nhân viên mới này có một vũ khí “tự thân” vô cùng sắc bén chính là… nhan sắc của một cựu hoa hậu!
Sau 16 tháng theo học khóa đào tạo cực kỳ khắc nghiệt, vất vả dành cho giới đặc vụ hoặc điệp viên ngầm từ bắn súng đến đánh võ, đấu dao tại đại bản doanh Quantico… mới được tung vào cuộc chiến chống tội phạm trên đất Mỹ. Toàn là thứ tội phạm loại dữ từ mafia buôn lậu ma túy đến trộm cướp giết người, rửa tiền, ám sát chính trị lẫn bọn sát thủ giết mướn.
Tuy luôn phải đối diện với cái chết song cuối cùng mình vẫn sống sót, một phần có lẽ nhờ bản tính tinh tế khéo léo của người phụ nữ Châu Á cộng với… sắc đẹp dễ làm xiêu lòng người khác kể cả trùm mafia! Nhưng dù may mắn thoát chết nhiều lần song sức ép của công việc quá nguy hiểm buộc phải trả giá bằng hạnh phúc gia đình đi đến chỗ tan vỡ ly dị sau hơn 10 năm chung sống.
Năm 1998 sau 20 năm lăn lộn với FBI thấy đã quá đủ, quá mệt mỏi bèn xin về hưu non với mong muốn tìm lại cuộc sống yên bình, thanh thản của một con người bình thường. Từ đó quyết định chọn Thái Lan “đất nước của nụ cười” làm nơi ẩn dật cuối đời nên cùng con gái rời đất Mỹ qua Bangkok mở một tiệm ăn chuyên nấu món Việt ở Bangkok.
Ngoài việc tìm niềm vui trong món ăn Việt, bà chủ tiệm thỉnh thoảng vẫn lấy chiếc vương miện hoa hậu cách đây 40 năm mình còn lưu giữ ra ngắm nghía hoài niệm một kỷ niệm đẹp từ quê hương.
Còn nếu nhắc về sự nghiệp FBI thì vẫn lấy làm tự hào khoe rằng năm 1995 từng được FBI giao cho nhiệm vụ làm cầu nối với cơ quan an ninh VN (lúc đó hai nước chưa có thỏa thuận hợp tác về ngành này) để cùng truy nã 2 tên tội phạm Việt kiều gây án ở Mỹ rồi chạy trốn về VN. Kết quả công an VN đã bắt giữ chúng rồi giao cho đại diện FBI đưa về Mỹ ra tòa tuyên án. Có mặt trong cuộc bàn giao tội phạm đó là cựu hoa hậu miền Nam tự giới thiệu “Tôi mang hộ chiếu Mỹ nhưng là người có tâm hồn thuần Việt.”

325 - Nguyễn Kim Điền
TỔNG GIÁM MỤC “DŨNG CẢM”
Tu sĩ Thiên Chúa giáo sinh 1921 tại Vĩnh Long – Mất 1988 ở TPHCM (67 tuổi).
Từ năm 1968 là Tổng Giám mục địa phận Thừa Thiên – Huế nhưng luôn giữ một thái độ độc lập với chính quyền VNCH vốn có 2 đời tổng thống đều theo đạo này. Với lập trường phi chính trị từng có lời phát biểu bị cho là “thân Cộng“ năm 1974 trong chuyến đi viếng Tòa thánh Vatican ở Rome: “Là giám mục Công giáo tôi không bao giờ chấp nhận chủ nghĩa Cộng sản nhưng những người cộng sản cũng là người anh em của tôi.”
Sau 75 vẫn đứng vững trên cương vị lãnh đạo giáo dân Thừa Thiên – Huế dù trong hơn 100 linh mục chỉ còn lại 6 người tình nguyện “sống chung” với Cộng sản (giáo xứ Quảng Trị thì quý linh mục… đi sạch!). Và dù luôn bị chính quyền địa phương thời đó tìm đủ mọi cách làm khó, ngăn cấm, hạn chế đủ kiểu như bắt trình diện “làm việc” cả ngày kéo dài hàng tháng trời, bắt giam rồi bỏ tù những người thân tín, quản chế tại chỗ không cho đi ra khỏi tỉnh...
Nhưng vẫn trụ vững như đi xiếc trên dây trong cơn phong ba quan hệ căng thẳng “bằng mặt chẳng bằng lòng” giữa đôi bên nhà thờ và chính quyền. Một mặt cố gắng bảo vệ giáo dân đồng thời không ngừng đấu tranh cho quyền tự do tôn giáo đối với tín hữu của mình. Năm 1977 từng có bài phát biểu gây tiếng vang tại UB Mặt trận Tổ quốc VN về vấn đề này qua đó khẳng định giáo dân đạo Thiên Chúa đang bị đối xử bất công ,bất bình đẳng. Năm 1983 đã tỏ thái độ chống đối quyết liệt việc Nhà nước thành lập UB Đoàn kết Công giáo VN thân chính quyền xem như một đối trọng với Hội đồng Giám mục VN, tổ chức lãnh đạo chính thống được Vatican công nhận.
Những nỗ lực hoạt động không mệt mỏi nhưng đầy phức tạp đó đã được Giáo hoàng Paul II ghi nhận trong chuyến gặp gỡ ở Rome năm 1980, được Giáo hoàng tuyên dương là một “Tổng Giám mục dũng cảm” đã thực thi một nhiệm vụ đầy khó khăn là “Hợp tác trong tình trạng luôn đối kháng lại” với người cộng sản.
Nhưng “cuộc chiến cân não” đó đã dần làm suy kiệt sức khoẻ với nhiều chứng bệnh tuổi già như nhồi máu cơ tim, tiểu đường… khiến năm 1988 phải vào TPHCM điều trị. Nằm bệnh viện Chợ Rẫy bác sĩ hầu như bất lực nên được phép qua Vatican chạy chữa, tuy nhiên chưa kịp đi thì đã trút hơi thở cuối cùng tại bệnh viện.
Nguyên nhân cái chết công bố là do biến chứng tiêu chảy, tuy nhiên có tin đồn tiêu cực lan truyền trong giới giáo dân hồi đó là ông đã bị… đầu độc !?

326 - Nguyễn Thị Bé
HƯỞNG THỪA KẾ 60 TRIỆU USD
Thường dân sinh 1975 tại Bình Thuận. Sống ở đảo Saipan thuộc Mỹ (2007).
Một trường hợp “Lọ Lem” khi năm 18 tuổi tình cờ gá duyên (không hôn thú) với tỉ phú Mỹ Larry Hillblom (đồng sáng lập Tập đoàn phát chuyển nhanh quốc tế nổi tiếng DHL) và là ông chủ khách sạn ở Phan Thiết có được một con trai đặt tên là Nguyễn Bé Lory.
Đây là nhà doanh nghiệp Mỹ hiếm hoi đã đổ 40 triệu USD đầu tư vào VN (khách sạn và sân golf ở Đà Lạt, Phan Thiết) từ năm 1992 ngay trong thời kỳ Mỹ còn cấm vận VN (thông qua những công ty nước ngoài làm trung gian). Sau đó ông chủ Mỹ chia tay ra đi về Mỹ.
Bất ngờ năm 1995 ông này rớt máy bay chết mất xác và tuy ông ta không chính thức thừa nhận các đứa con rơi song luật pháp Mỹ bắt buộc phải chia gia tài cho chúng sau khi đã được xác nhận ADN. Thế nên 2 mẹ con được luật sư Mỹ qua VN truy tìm ra tông tích bảo lãnh qua Mỹ định cư (tại đảo Saipan nơi nhà tỷ phú rơi máy bay chết mất xác) năm 1999 chờ con trai đủ 18 tuổi (năm 2013) sẽ được lãnh trọn phần chia thừa kế gia tài lên đến 60 triệu USD không mơ thấy nổi!
Năm 2007 đã kín đáo đưa con về thăm lại quê hương.

327 - Nguyễn Thị Dung
“GIẤC MƠ MỸ” NGẮN NGỦI
Thường dân Việt kiều sinh 1966 tại VN – Mất ở Mỹ 2008 (42 tuổi).
Một mình nuôi con gái 10 tuổi ở VN thì năm 2005 gặp một Việt kiều 60 tuổi (lớn hơn 20 tuổi, qua Mỹ năm 1988) góa vợ còn nuôi 7 con ở Mỹ muốn chắp nối đưa qua Mỹ để phụ giúp mình lo việc gia đình đông con. Đồng ý làm đám cưới tại VN chờ bảo lãnh vì cũng muốn con gái mình sau này có tương lai tốt đẹp hơn.
Cuối năm 2007 cả 2 mẹ con qua Mỹ vừa bắt đầu học nghề ở một tiệm bánh mì vừa theo chồng đi giao báo mỗi rạng sáng. Thế rồi trong một chuyến ngồi ô tô cùng chồng đi bỏ báo đã bị một tài xế Mỹ say rượu… đâm xe chết tại chỗ, đúng 2 tháng 8 ngày sau khi đặt chân lên đất Mỹ!
Ông chồng cũng bị thương nặng nằm thoi thóp trong bệnh viện, các con đời trước thì mới biết sơ sơ nên đám tang phải kêu gọi cộng đồng giúp đỡ mới có tiền làm.

328 - Nguyễn Thị Hai
THƯƠNG BINH MANG ÁN “CHIÊU HỒI”
Thương binh sinh tại Long An. Sống ở Long An (2007).
Theo Cách mạng từ năm 11 tuổi làm giao liên rồi y tá lực lượng du kích (bí danh Năm Xẹ). Lấy chồng du kích xã có ba con.
Sau 75 được công nhận thương binh 1/4 mất 81% sức khỏe (nhiều lần bị thương nặng, đui một mắt). Tham gia công tác ở xã.
Bất ngờ năm 1994 bị người ghen ghét thù oán cá nhân gửi đơn tố cáo đương sự vào năm 1969 từng làm dân “chiêu hồi” của chế độ cũ! Thế là bị cắt hết mọi chế độ, cho nghỉ việc - và còn đòi lại toàn bộ số tiền chế độ đã nhận 18 năm nay! - đẩy bà vào cảnh khốn cùng phải dựng một cái lều tạm bợ bằng… bao bố ngoài bờ ruộng để sống qua ngày. Chồng đã mất, ba con lập gia đình nghèo ở xa, một mình phải đi bán vé số cố sống cầm hơi. Nhiều lúc phát cuồng lên cơn xách thùng thiếc đi khắp xóm đánh ầm ĩ…đòi lại thẻ thương binh!
Đầu đuôi sự việc là vào năm 1969 bà bị thương nặng khi đang mang thai 7 tháng nên được tổ chức quyết định cho đưa ra vùng tạm chiếm để chạy chữa. Tại đây bị cơ quan Chiêu hồi chế độ Sài Gòn khống chế bắt học tập bỏ ngũ về đầu hàng mới chịu thả ra. Tuy nhiên bà không khai báo gì và khi quay về lại vẫn tham gia công tác bình thường một lòng một dạ trung thành với Cách mạng. Năm 1974 còn bị địch bắt tra tấn nữa.
Sự thật như thế được đa số quần chúng địa phương biết rõ công nhận nhưng đến năm 2007 cấp trên vẫn chưa thay đổi quyết định “giải phóng” cho bà!

329 - Nguyễn Thị Hai
QUA MỸ MUÔN DẶM TÌM CON MẤT TÍCH
Thường dân sinh 1949 tại VN. Sống ở VN (2006).
Chồng là quân nhân VNCH tử trận năm 1973 nên con trai đầu 16 tuổi vượt biên bị bắt ở tù 6 tháng. Khi con ra tù đành gửi con đi vượt biên một mình với giá 2 cây vàng năm 1986, còn mình và 2 đứa con sau chấp nhận ở lại.
Con trai qua Mỹ ban đầu báo tin về tương lai cuộc sống khả quan, đang học nghề sửa đồng hồ ở Santa Anna (Los Angeles). Nhưng bỗng nhiên từ năm 2002 thì anh ta… bặt tin hẳn!
Đến gần cuối năm 2006 quá lo và thương con, không thể chịu được nữa đã vay mượn tiền bạc xin đi Mỹ để truy tìm tin tức, tông tích con dù bản thân đang mang nhiều trọng bệnh thấp khớp, đau tim.
Đến Mỹ không biết tiếng Anh, trong tay chỉ còn 600 USD, làm sao tìm được con khi không biết địa chỉ con ở đâu, không người thân thích giúp đỡ trên một đất nước rộng bao la như nước Mỹ? Đã vậy còn được cảnh sát cho biết con bà từng tham gia bọn xã hội đen đi ăn cướp bị bắt năm 1995 ở tù 5 năm rồi lại vào thù thêm 3 lần nữa, đến năm 2006 ra tù thì… biến mất! Nhưng vẫn cố đi nơi này nơi kia với tấm ảnh con ráng hỏi dò bất cứ ai gặp được.
May mà cuối cùng nhờ người biết chuyện thương tình cung cấp cho thông tin cũng tìm ra được con lúc đó đã trở thành… dân bụi đời không nhà (homeless) ở San Jose xin ăn từ một nhà hàng. Khi gặp lại, gia sản anh ta chỉ có mỗi chiếc mền nằm ngủ vạ vật, một con dao bỏ túi, vài vật dụng đồ bỏ và… 69 cent trong túi. Có vẻ anh ta đang mắc bệnh hoang tưởng không chịu cho mẹ ôm mình vào lòng và cũng không gọi “mẹ” mà chỉ gọi là “dì”. Dường như đã mắc bệnh tâm thần từ trong nhà tù.
Cảnh sát giúp đưa vào bệnh viện chữa trị bệnh cho người con, người mẹ thì túc trực bên con suốt ngày đêm. Sau đó khi được cho ra viện, cả hai về tá túc trong một nhà thờ đạo Cao Đài.
Không biết đoạn kết câu chuyện phiêu lưu khó tin của bà mẹ VN này thế nào khi visa đến Mỹ của bà hết hạn vào tháng 1.2007.

330 - Nguyễn Thị Hàm Tiếu
CỨU ĐỨC HỒNG Y
Tu sĩ Thiên Chúa giáo Việt kiều sinh 1938 tại Thừa Thiên & Huế – Mất 2005 ở Uc (67 tuổi).
Cháu ruột của cố Tổng thống Ngô Đình Diệm, em ruột của cố Hồng y Nguyễn Văn Thuận, vào thời TT Diệm làm chuyên viên trong Tòa Đại sứ VN ở Uc.
Đến biến cố ngày 1. 11.1963 tướng Dương Văn Minh lật đổ chế độ Diệm nên bị mất việc, buồn chuyện thế thái nhân tình liền xin vào tu viện đi tu luôn.
Sau 75 được gọi là xơ Anne Cecile nổi tiếng nhà hoạt động xã hội từ thiện trong cộng đồng người Việt di tản đến Uc. Ngoài việc xin bảo lãnh cho bố mẹ và 7 anh chị em qua Uc còn bảo trợ cho người Việt ở các trại tị nạn khác… Đồng thời tích cực tham gia giúp đỡ họ sớm hòa nhập vào xã hội Uc, dạy tiếng Anh, mở trường…
Rồi từ năm 1979 bắt đầu lao vào cuộc vận động tranh đấu chính phủ VN trả tự do cho anh ruột mình là Tổng Giám mục Nguyễn Văn Thuận ở Khánh Hòa bị bắt giam do chính quyền Cộng sản e ngại ông mối quan hệ với cố TT Diệm và lực lượng giáo dân Thiên Chúa giáo chống chế độ. Đã đi đến nhiều nước vận động Bộ Ngoại giao, Giáo hội Thiên Chúa giáo kể cả Tòa thánh Vatican…
Nhờ đó đến năm 1989 Tổng GM Thuận mới được thả ra để được phép qua làm việc luôn ở Vatican, được bổ nhiệm giữ chức tổng trưởng và năm 2001 được Giáo hoàng Jean Paul VI tấn phong Hồng y (mất 2002).
Năm 2004 bà được chẩn đoán mắc ung thư bướu não.
Trước khi qua đời có 3 di nguyện: Một – không nhận vòng hoa phúng điếu, thay vào là tiền phúng điếu được góp quỹ giúp bệnh nhân phong; hai – khắc trên bia mộ dòng chữ khiêm nhường tiếng Anh “Nơi an nghĩ của Anne (tên thánh), người lúc nào cũng cố gắng hết sức mình”; ba – khi ra đi được mặc chiếc áo dài VN màu hồng như một hình ảnh tượng trưng nhớ về quê hương với niềm tin yêu vào tương lai tươi sáng.
(Còn tiếp)

EM SẮP VỀ CHƯA

Em sắp về chưa-Em về chưa?
Sài Gòn tháng sáu trời đang mưa
Chiều bên phố cũ, anh hòai vọng
Bóng nhỏ ai còn tiếng dạ, thưa…

Em sắp về chưa-Em về chưa?
Sao nghe hồn níu gió sang mùa?
Trái tim anh cũng nòi Tư Mã
Mơ áo em xanh cả bốn mùa!

Nhiều năm anh đã từng bơ vơ
Thị Nghè , Bà Chiểu sầu đong đưa
Rồi về Gò Vấp đằm nhung nhớ
Mỗi ngày lạc giữa mắt ai xưa…

Em sắp về chưa-Em về chưa?
Con gái Qui Nhơn đâu có ngờ
Nói năng nhỏ nhẹ như là Huế
Điêu đứng tình ai sáng đến khuya…

Sài Gòn tháng sáu trời đang mưa
Em về lay động những ngày xưa
Anh như sa mạc hoang vu ấy
Khát chút môi em đến dại khờ…
TRẦN DZẠ LỮ
( SàiGòn tháng 6. 2010 )

TÌNH CA


Em gửi tôi tấm giấy thông hành
vào miền miên du của ký ức
ở đó, đôi ta
trên chiếc xích đu của năm tháng
đong đưa cuộc sống ngọt ngào
lời hát em
dịu nhẹ bên tai
những ngày ắp đầy tình ái

Em gửi tôi tấm vé tương lai
trăng soi miền viễn xứ
ở đó, đôi ta
dưới hàng hiên mờ tỏ
bóng lá dập dềnh
lời tình trao không kịp hơi thở

Em gửi tôi cả cuộc hành trình không nơi đến
của tình yêu

TỪ HOÀI TẤN

TRIỆU TỪ TRUYỀN,THƠ VÀ SỰ LƯƠNG THIỆN


Chúng tôi quen nhau giữa thập niên 60 của thế kỷ trước, chính xác là 42 năm tính đến năm Đinh Hợi 2007.Thuở ấy,chúng tôi là những chàng trai 18, 20 đầy nhiệt huyết và hoài bảo. Đó là những năm đất nước bị chia cắt, chiến tranh.
Đêm Lên Cơn Dài, tập thơ được ra đời rất sớm so với lứa tuổi chúng tôi, xuất bản năm 1965, ở Sài Gòn, Triệu Từ Truyền(Triệu Cung Tinh) đã khái quát một tuổi trẻ bị lưu đày trên chính quê hương mình:
nỗi buồn lên tuổi tác
môi không phải để cười
tia sáng chìm trong mắt
chưa trọn vẹn con người .....
một thành phố chết tươi.
Đó là những dòng thơ Truyền viết từ năm 16 tuổi... Thuở ấy, Triệu Từ Truyền là chủ biên một nhóm sáng tác văn học lấy tên là Bộ Lạc Mới. Trong nhóm tôi còn nhớ các anh như nhà văn Từ Kế Tường, nhà thơ Trần Hồng Nhan (Nguyễn Tôn Nhan),và một số bạn viết khác nữa,có bạn đã chết trong chiến tranh.Một hôm , ở Huế tôi nhận được một số tạp chí Bộ Lạc Mới, khoảng năm chục tờ, tờ tạp chí có hình thức khác lạ, khoảng 12 trang của tờ nhật báo xếp đôi, đăng thơ, truyện ngắn và một tuyên ngôn văn học đại để kêu gọi phải làm mới văn học và dấn thân, kèm theo lá thư có giọng điệu khí phách và ngông nghênh . Tôi còn nhớ lá thư có đoạn:”các anh,những người chủ trương Bộ Lạc Mới, nhờ các em phát hành tạp chí này ở Huế. Qua đọc các tạp chí văn học ở Sài Gòn, biết em là nhà thơ .Con gái Huế nhất định đẹp. Con gái Huê làm thơ thì đẹp hơn. Trước khi phát hành, các em hãy lấy một số mà đọc, để hiểu, để biết và khâm phục các anh là những thiên tài…..”Sau này, tôi găp Triệu Từ Truyền, được biết anh không trực tiếp viết lá thư này? có lẽ do anh Nguyễn Tôn Nhan viết chăng? Suy nghĩ cả tuần , phải nghịch ngợm lại các thiên tài ở Sài Gòn , tôi hồi âm mấy dòng:”Các em đã đọc tạp chí Bộ Lạc Mới, quả thật các anh là những thiên tài . Để tỏ lòng ngưỡng mộ, xin gửi các anh một kỷ vật để các anh kết làm vòng hoa nguyệt quế….”Món quà tặng” đầy khiêu khích này,không bao giờ được cám ơn.
Đến cuối nắm 1966, tôi vào học ở Sài Gòn,”cô gái Huế”hẹn gặp các anh ờ quán cà phê, gần tạp chí Văn, đường Phạm Ngũ Lão.Gặp nhau cười xòa và thân nhau từ đó.
Hơn 40 năm qua,chúng tôi vẫn gần gũi nhau trong môi trường sinh hoạt văn học,trong nồng ấm lạnh lẽo của cuộc tồn sinh. Có thời gian bặt tin nhau, rồi gặp lại, vẫn luôn tưởng như những năm tháng tuổi trẻ vĩnh viễn đọng lại bên chúng tôi.
Tôi gặp Truyền một thời gian, rồi lại bặt tin anh . Anh đang la cà đâu đó? Sau này mới biết anh vô bưng,vào tù ra khám. Rồi gặp nhau, rồi xa cách cho đến sau năm 1975, lại gặp nhau giữa Sài Gòn.
Truyền vẫn vậy, thơ, bạn bè và nhan sắc, trong đó thơ là niềm say mê đến tận cùng. Nói Triệu Từ Truyền khôn lớn với thơ, sống với thơ, gắn liền cuộc đời với thơ ,quả không ngoa. Anh đã đồng hành với thơ trên mọi nẽo đường gian truân, khốn khó, đau khổ và hạnh phúc. Nói khác đi thơ là hơi thở của anh, không có thơ Truyền chết. Thơ đã bức tử anh, để cho anh một cuộc sống khác đầy hân hoan, thống khổ trong hạnh phúc.
Nếu không có thơ, không mê đắm thơ, anh phải đi một con đường khác không lối quay về.
Nhiều lần gặp Truyền, tôi chiêm nghiệm về anh như một người mãi mê đi tìm trong cõi đời này một cái gì mà anh chưa đạt được, như một niềm hạnh phúc cheo leo, của kiếp người không có thực. Thơ ca chăng ? Có lẽ vậy!Thơ vốn làm cho con người trở nên lương thiện, dĩ nhiên là thơ thứ thiệt. Gần cuối đời tôi nghiêm ra được chân lý ấy. Và Triệu Từ Truyền cho đến hôm nay, kể từ ngày tôi biết anh, quen anh, thơ đã níu giữ anh luôn là người lương thiện, dù ở tuổi 18 anh sớm thấy cái không của kiếp người :
"Tôi đối diện cuộc đời vừa cháy rụi
Còn tro than của một đóa bông hồng
Tôi đi tìm ý nghĩa dưới lòng sông
Nước vẫn chảy xuôi nguyên màu trắng toát."
(Đêm lên cơn dài/1965)
Gần cuối đời anh vẫn sống với thơ, dành trọn vẹn cho thơ .Cách đây không lâu , tôi nhận được cuốn Tương Tác, truyện dài của Triệu Từ Truyền . Hình như là một giải bày đầy tâm huyết của anh.
Tâm hồn thơ đã cho anh cái tĩnh lặng để nhìn lại thấu đáo, để nói với những người cùng thời, và thế hệ sau, hãy tránh vết xe đổ trên những nẽo đường lich sử….

NGUYỄN MIÊN THẢO

BÀI TẠ TÌNH

phải mất, cho dù không muốn mất
giữ nhau đến mấy cũng không còn
dù em con mắt nheo ly biệt
tay đã buông mà chưa hết buông

ta đọc lại bài thơ thứ nhất
khi ta vừa mới chớm đau tim
để không ngờ ta còn sống sót
sau cơn bảy-nổi-với-ba-chìm

(ta đã tình si vô địch thủ
trong đám làm thơ ở thế gian ?)

tình đi – là biết không về nữa
làm sao còn lại cái-không-còn ?
sao em quay mặt mà chưa bước
để tấm lòng kia phải núi non !

HOÀNG LỘC

MỘ GIÓ HOÀNG SA TRÊN ĐẢO LÝ SƠN

Lý Sơn là ốc đảo biệt lập, là nơi đầu sóng ngọn gió, là nơi xuất phát những đoàn hùng binh bảo vệ biên cương tổ quốc. Lịch sử của Lý Sơn là lịch sử của những chuyến ra khơi, là lịch sử của những tháng năm mỏi mòn chờ đợi, trông ngóng…
Năm ngọn núi lớn chiếm hơn nửa diện tích đảo – miệng núi lửa còn sót lại trên núi giếng Hiền nhìn ra biển Đông đẹp , hùng vĩ (theo tôi đây là miệng núi lửa đẹp nhất Việt Nam ) .
Bên phải có một tượng lớn Quán Thế Âm trắng, bên dưới là nghĩa trang của những con người đã mất trên ốc đảo này cùng với những mộ gió – âm linh còn vang dội đâu đó …
Bên trái cũng có một tượng Quán Thế Âm , phía sau là chùa Hang , phía trước biển trời lung linh xanh quyến rủ, thấy luôn tầng nham thạch ửng sáng lạ lùng, dễ trông rõ tầng san hô lắm màu quyện cùng rong biển

Đão Lý Sơn và giếng Gia Long

Lý Sơn gắn liền với giai đoạn lịch sử mở mang bờ cõi và khẳng định chủ quyền của các Chúa Nguyễn và Vương triều Nguyễn hơn 400 năm lịch sử qua- nơi xuất phát những binh đội Bắc Hải vượt biển ra Hoàng Sa - Trường Sa
: “Tháng giêng năm Ất Hợi (1815) sai Phạm Quang Ảnh thuộc đội Hoàng Sa ra đảo Hoàng Sa xem xét đo đạc thuỷ trình, cắm mốc chủ quyền và canh giữ biển đảo…” (Đại Nam Thực Lục chính biên).
Mộ Gió đầu tiên ở Lý Sơn cách nay 200 năm là mộ của cai đội Phạm Quang Ảnh cùng 24 chiến binh của hải đội Hoàng Sa.
Hoàng Sa trời nước mênh mông,
Người đi thì có mà không thấy về.
Khởi đầu cuộc sống người dân trên đảo này có từ Thời Tây Sơn truy đuổi Gia Long( khi Vua Gia Long và đoàn tùy tùng đến đảo…) đào được giếng nước ngọt để dùng…sau đó Vua tiếp tục chạy trốn tiếp mãi tận đảo Phú Quốc bây giờ.
Trên miệng giếng bây giờ còn Bia tưởng nhớ. Lạ kỳ nhất,miệng giếng cách mép biển khoảng 5 mét. Dù trên đảo đã có hệ thống nước ngọt, nhưng mỗi ngày người dân vẫn đến lấy nước giếng để pha trà, sinh hoạt …Truyền thuyết nước Giếng chửa được nhiều bệnh nên giếng còn có tên giếng Hiền của gần 20 ngàn dân hôm nay .

Mộ Gió Hoàng Sa trên đảo Lý Sơn
" Trung Quốc đã "dùng vũ lực để chiếm đóng" Hoàng Sa cũng như một số đảo tại Trường Sa.: "Mục tiêu cuối cùng của TQ không phải là các hòn đảo nhỏ thuộc hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, mà là vùng biển lớn đến 80% toàn bộ Biển Đông".

Chuyện 200 năm trước thời Vua Nguyễn ,những người chiến sĩ Việt Nam ra đi trấn thủ Hoàng Sa, khi ra khơi những người thân thuộc làm những ngôi Mộ không xác than, không hài cốt …và nguyện cầu
giờ đây còn lại chứng tích những ngôi Mộ Gió trên đảo Lý Sơn …

Trong trận hải chiến Trường Sa với quân đội Trung Quốc vào năm 1988 gần 70 chiến sỹ Việt Nam thiệt mạng, chưa kể nhiều chiến sĩ hy sinh trong trận chiến 1974

DƯƠNG ĐÌNH HÙNG