TÌNH THIÊN THU - HOÀNG THỊ THIỀU ANH

Giấu giọt buồn vào mắt.
Giấu sợi nhớ vào tim.
Nỗi khao khát vội tìm.
Dưới miền trời xa lắc.

Giấu cô đơn đi lạc.
Hoang phế cả buổi chiều.
Giấu mảnh tình cô liêu.
Trong ngăn sâu kí ức.

Giấu thu xưa trong vắt.
Đáy chiếc lá vô tình.
Giấu mùa hạ lặng thinh.
Đáy màu hoa u uất.

Giấu mùa đông ngàn ngạt.
Giữa mưa bão chập chùng.
Giấu xuân giữa mông lung.
Sương khoắt khuya trầm mặc.

Giấu! giấu chôn tất cả!
Tận thăm thẳm nấm mồ.
Ta về ru tình ngủ.
Ôi! Cuộc tình thiên thu…

ĐẶT BÚT VIẾT THÌ PHẢI TRỞ VỀ VỚI CHUẨN MỰC

Ngôn ngữ là để diễn đạt suy nghĩ. Nhiều bậc phụ huynh đang lo ngại vì thấy con dùng từ ngữ tiếng Việt không chuẩn. Chuyện này diễn ra hằng ngày và ngày càng phổ biến sẽ ảnh hưởng đến hành động giao tiếp của cả một thế hệ.

Trao đổi về vấn đề này, Nhà giáo Nhân dân, GS-TS Đinh Văn Đức - nguyên Chủ nhiệm khoa Ngôn ngữ học Trường ĐH KHXH&NV, ĐH Quốc gia Hà Nội - cho biết:

- Chúng ta phải có cái nhìn rộng hơn về việc dùng những từ ngữ chưa từng có trong tiếng Việt của giới trẻ hiện nay. Trong giao tiếp ngôn ngữ, người nói tiếng mẹ đẻ khi có xu hướng theo nhau trong một lối nói nào đó thì đến một thời điểm lối nói ấy tự nhiên sẽ dần trở thành quy tắc tự nguyện của cộng đồng (nói như nhà văn Lỗ Tấn: “Người ta đi mãi thì thành đường thôi”).

Ngôn ngữ của chúng ta luôn biến động. Về mặt tích cực, nó tạo ra lối nói mới phong phú và tốt hơn, nhưng mặt tiêu cực thì cũng có khi tạo ra những cách nói bị coi là không chuẩn mực, ảnh hưởng đến văn hóa giao tiếp. Đây là sự tất yếu của cộng đồng trong sử dụng ngôn từ; do đó phải quan tâm đến những can thiệp làm cho hành vi ngôn ngữ được tốt hơn, văn minh hơn.

Có nhiều lý do để một số bạn trẻ - vốn nhạy cảm, năng động, thích tạo ra từ ngữ mới cho nhóm xã hội của mình, từ ngữ ấy không chuẩn với tiếng mẹ đẻ. Một số muốn mình nổi trội hoặc muốn tạo ra dấu ấn riêng, tếu táo viết trên blog, nhắn tin mà chưa có đủ sự trang bị về văn hóa. Tuy nhiên, nếu xã hội không tìm cách điều chỉnh thì dần dần một số cách nói có thể được phổ biến trong cộng đồng.

Trong ngôn ngữ có nguyên tắc: Người bản ngữ luôn nói đúng. Tức nếu không thực hành giáo dục, can thiệp thì “mưa dầm thấm lâu”, một số biểu đạt phi chuẩn sẽ có cơ được cho qua. Tuy nhiên theo quy luật chọn lọc, những cái xấu sẽ tự bị đào thải khỏi ngôn ngữ.

Từ cách viết tắt 100 nghìn đồng thành 100k, dần dần bây giờ có nhiều cửa hàng treo biển giá 100k, 120k. Rõ ràng đây là sai với chuẩn tiếng Việt. Giáo sư có ý kiến gì?

- Đây là một trong số nhiều hiện tượng dùng không đúng hiện nay. Có thế thấy khắp các phố phường nước ta nhan nhản biển cửa hàng, biển hiệu, quảng cáo... bằng tiếng nước ngoài, gây phản cảm, bức xúc, bị bạn bè quốc tế chê cười. Điều này rất ít có ở các nước khác. Có 2 lý do dẫn đến tình trạng này là hạn chế về văn hóa ngôn ngữ và sự can thiệp còn quá yếu.

Như đã nói, trong ngôn ngữ mà cứ để tự phát thì mọi cái tiêu cực dễ có chỗ đứng, nên chúng ta phải có sự can thiệp kịp thời. Theo tôi, có mấy nhân tố cần tính tới: Thứ nhất, bản thân mỗi người phải có ý thức trau dồi văn minh, văn hóa ngôn từ qua nâng cao tầm hiểu biết, từ đó tự điều chỉnh cách dụng ngôn. Thứ hai, sự can thiệp của Nhà nước sẽ điều chỉnh hành vi ngôn ngữ theo luật pháp.

Năm 1997, cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã ký quyết định không cho phép dùng tên nước ngoài trên các biển hiệu và quảng cáo, nhưng quyết định này không đi vào đời sống vì không được tích cực thực thi. Nếu làm như việc yêu cầu đội mũ bảo hiểm thì sẽ có chuyển biến ngay. Thứ ba, gia đình và nhà trường là những kênh giáo dục ngôn ngữ rất quan trọng. Nhà trường từ rất sớm cần dạy cho trẻ những chuẩn mực của tiếng mẹ đẻ.

Trẻ em tới trường phải được học nghi thức lời nói, học viết đúng chính tả..., phải được học kỹ năng nói trước công chúng để không thiếu tự tin và lịch sự khi nói trước đám đông... Thứ tư, chính là lòng yêu tiếng mẹ đẻ. Điều này phải được phát huy qua sách báo, ngôn ngữ truyền thông, ngôn ngữ văn học nghệ thuật...

Thưa Giáo sư, hiện tượng dùng từ lệch chuẩn tiếng Việt của giới trẻ ảnh hưởng như thế nào tới ngôn ngữ ở thời điểm hiện tại cũng như về lâu dài?

- Việc dùng từ ngữ lệch chuẩn tiếng Việt rất khó giảm nếu chỉ bằng biện pháp hành chính. Ngôn ngữ là thứ thiết chế xã hội tự nguyên của con người nên phải giúp các bạn trẻ tự giác hơn, vì nay xã hội ta đang trong thời kỳ chuyển đổi và hội nhập quốc tế. Nhiều giá trị đang bị bung ra và ngôn ngữ cũng nằm trong xu hướng đó. Tiếng Việt đang bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố pha tạp. Nếu không có ý thức và biện pháp điều chỉnh sẽ dễ sinh ra những thứ lệch chuẩn. Lâu dần, tiếng Việt sẽ khó giữ được sự trong sáng và giàu đẹp mà cha ông để lại.

Do đó, Nhà nước ta cần sớm ban hành luật ngôn ngữ để làm cơ sở cho các văn bản quản lý. Quan trọng nữa chính là từ ngữ trong dụng ngôn của các cơ quan truyền thông cần nêu gương cho công chúng. Ngôn từ báo chí phải thật sự là tấm gương của sự chuẩn mực. Truyền thông là một kênh quan trọng ảnh hưởng rộng lớn tới cách dùng ngôn ngữ của công chúng, nhất là đối với những người trẻ tuổi.

Trên giảng đường, với tâm huyết và trách nhiệm, tôi thường xuyên nêu vấn đề nóng hổi trong việc dùng từ ngữ để sinh viên thảo luận. Qua đó họ tăng thêm hiểu biết, được tác động can thiệp và đã có những thay đổi trong hành vi giao tiếp theo hướng tích cực và duy trì bền vững.
- Xin cảm ơn Giáo sư!
Thu Trà thực hiện
( LAO ĐỘNG
)

TỰ BẠCH 1 - NGUYỄN MIÊN THẢO

Năm anh ba mươi tuổi
Ngở mình đi đúng đường
Giờ sắp tuổi lai hi
Mới biết mình lạc lối

Mười hai năm làm quan
Lòng luôn sao bức bối
Mười tám năm làm dân
Mới biết mình có tội

Mười tám năm làm thinh
Mười tám năm không nói
Em tặng một ngày xuân
Cuộc đời anh tươi mới

Chỉ cần nụ cười em
Cuộc đời anh đã khác
Chỉ cần được yêu em
Anh không con đi lạc.

LÃNG THANH: KHUÔN MẶT EM PHI NHƯ ĐIÊN CUỒNG - TRẦN MẠNH HẢO



Xin cám ơn nhà văn Đỗ Viết Nghiệm, trong một dịp tình cờ, đã cho tôi tập thơ “HOA” của tác giả Lãng Thanh, NXB Thanh Niên 2003. Tôi đã đọc một mạch hết tập thơ 71 trang khổ 20,5 x 17,5 cm này trong niềm hứng khởi hiếm có (Trần Mạnh Hảo).

LÃNG THANH: GƯƠNG MẶT EM PHI NHƯ ĐIÊN CUỒNG

Lãng Thanh, tiếng sóng thơ ném ra cuộc đời này một dồn nén vỗ, một bùng vỡ kêu thương, quằn quại mà dịu dàng, nhức buốt mà thương mến. Tiếng sóng ấy vừa vọt lên từ bến thẳm thi ca đã mất hút vào hư vô, chỉ để lại chút dư âm gió hú. Lãng Thanh tên thật là Lê Quốc Tuấn, sinh năm 1977 tại Hiền Quan, Tam Nông, Phú Thọ, mất ngày 20.07.2002 trong một tai nạn bi thảm: hai cha con anh đã đều bị tên bà con nghiện ma túy (con cô con cậu ruột) giết chết ngay trong chính nhà mình.
Mới 25 tuổi đời đã hóa mây bay, Lãng Thanh có hai bằng đại học, làm ngành ngân hàng ở Vĩnh Phúc, biết thành thạo 3 ngoại ngữ: Anh, Pháp, Trung Quốc, có tài năng trong các lĩnh vực: hội họa, thư pháp và thơ ca. Xin nghiêng mình thắp cho em một nén nhang, và xin mượn câu thơ rất hay sau đây của Lãng Thanh làm tên cho đầu bài viết mọn này. Chừng như nỗi chết đã ám thơ Lãng Thanh bằng chính tình yêu: Em đến cứu chuộc anh bằng một điềm gở? Xin dẫn đoạn IV trong bài thơ “Thơ trước tuổi 21”; tôi xin phép hương hồn tác giả, đặt cho đoạn thơ này một cái tên: “EM”, có thể đứng một mình, sống như một bài thơ hay hoàn chỉnh với 3 khổ:

Em đến bàng hoàng như cơn sốt
Bỗng môi tôi bất lực
Nụ hôn ơi ngươi khóa cả linh hồn

Em đến bất ngờ như dao sắc
Không đùa tựa những vết thương
Bởi gai hoa lặng chán chường

Em đến vùng vằng như tơ rối
Tìm nhau xa đến không ngờ
Trói anh rồi em lại làm ngơ

Em đến lao đao như lá rụng
Ngày xanh là nghĩa thế nào
Về bên anh khi đã chết rồi sao
Bài thơ “EM” trên là một nghẹn ngào, đọc xong chợt thấy mình bị neo vào tiếng sóng Lãng Thanh, toan đập nát mạn thuyền định mệnh mà hỏi: sao cứ phải yêu như là chết thế này hỡi tạo hóa, hỡi thi nhân? Bài thơ đi theo logic “EM”. Em từ đâu hiện về một cái đẹp môi hôn, hớp hồn. Khổ đầu EM tặng hạnh phúc, khổ thứ hai EM biếu vết thương, khổ thứ ba EM dâng lòi tói, khổ cuối cùng EM ban cái chết! Thế là EM đã lôi thi sĩ về chốn mù tăm, dù hú gọi, tuyệt nhiên không chút hồi âm. Khổ cuối cùng:”Em đến lao đao như lá rụng / Ngày xanh là nghĩa thế nào / Về bên anh khi đã chết rồi sao“ như là thơ của người chết hiện hồn về viết, xúc động đến mức làm ta sờ sợ, hoang mang. Đúng như Lãng Thanh vừa nói, kẻ viết bài này nay mới được “Về bên anh khi đã chết rồi sao“.
Tôi đang ngắm nhành “HOA” Lãng Thanh trong niềm hân hoan và nỗi buồn thương, khi sắp tháng bảy, là ngày giỗ đầu anh. Lãng Thanh từng viết nhiều câu thơ hay về “nàng” - người đàn bà định mệnh - bằng những lời yêu dấu: ”Đôi mắt nàng trong như mới khóc”. Thơ anh vẽ chính hồn mình thành “EM”: Gương mặt của em nặng như nước / Mắt em đong đầy hoa cúc tím” (Hàng cơm chay). Tôi yêu những câu thơ vừa hiện đại vừa cổ điển của Lãng Thanh viết về nàng 21 tuổi. Thi sĩ van nài nàng đừng thêm một giọt đẹp nào vào ly đời nữa, sợ ly tràn nước, trôi dạt mất tình yêu: ”Hai mươi mốt tuổi, em vừa đủ để xòe que diêm ra ngoài bóng tối / Nếu ly nước tràn em sẽ trôi dạt / Da em trắng như lụa bạch, đôi mắt màu mực nho / Em đến chiều nao cong như nguyệt” (Từ chiếc vỏ ốc biển đến thị trường chứng khoán). Chao ôi “Em vừa đủ để xòe que diêm ra ngoài bóng tối“ chừng như có đủ các yếu tố siêu thực, tượng trưng, hậu hiện đại... nhưng chẳng có chút dấu ấn nào của các trường phái kia dính vào câu thơ; nó là Lãng Thanh, là EM vừa xòe lửa thành diêm hay DIÊM vừa xòe em thành lửa, hay chính bóng tối xẹt lửa trời thi sĩ?
Que diêm thơ Lãng Thanh quẹt ngang bầu trời một tia chớp, rồi mất hút vào bóng tối, theo giọt nước tình yêu tràn ly số phận, đổ rồi không hốt lại được. Và em cong như nguyệt ơi, da trắng lụa bạch, mắt mực nho ơi, ly nước trời đã tràn, cuốn hết tâm hồn Lãng Thanh vào hố thẳm, để chúng ta qua mặt phẳng trang giấy “HOA”, còn có dịp ngó thấy chiều sâu vô bờ bến của chiếc ly không đáy vũ trụ đựng mối tình diêm sinh... Lãng Thanh chừng như mượn cây cọ hoang tưởng, phiêu lãng của Salvador Dali để vẽ nên gương mặt vĩnh cửu của người-đàn-bà-tình-yêu đang “phi” nước đại, mang anh về cõi khôn cùng: ”Khuôn mặt em phi như điên cuồng”. Gương mặt em - con ngựa siêu thực phi qua cuộc tình, hay cuộc tình hư ảo được phi bằng chính gương mặt hiện thực em?
Câu thơ lạ đến mức tôi phải ngừng đọc, để chiêm ngưỡng vẻ mặt đẹp vượt qua mọi kích thước, đang vút đi mười ngựa không kéo lại nổi, tung hết vó điên - cuồng - em. Lãng Thanh tả mắt người đàn bà anh yêu cực lạ, đôi mắt như đôi cá con bơi trong hồ tình, có thể chìm nghỉm trên cạn, lặn ngụp tung tăng trong trò chơi trai gái: ”Đôi mắt em vừa ngoi lên sau một hơi ngụp lặn dưới hồ”. Xin một giọt mực đêm rơi xuống vết khỏa thân của chiếc áo dài trắng, cho gương mặt em đang “phi” hơn mọi loài ngựa trên đời, mở ra thế giới “NỤ” lời tỏ tình “HOA”: ”Đêm xuống như một giọt mực rơi / Chiếc áo dài trắng em đang mặc đính nhiều dấu vết khỏa thân... / ...Mặt hồ cứng đờ như giấy báo cũ nhăn nheo / Những con sóng nở nang, vuông góc / Tôi chia tay em để chấm dứt một mưu đồ “ (Mùa thu).
Lãng Thanh chia tay em để về chết với mùa thu: ”Lá thu! Như lãng quên hiện về đỏ sẫm“. Thơ phải chăng cũng chính là những “lãng quên hiện về đỏ sẫm”? Phải yêu mùa thu lắm, thương cảm với những gì bị lãng quên lắm, nhà thơ mới viết được câu thơ như máu khắc vào thu. Mùa thu trần trụi của thơ anh khác với thơ xưa thường thưởng thu theo kiểu đài các. Thu Lãng Thanh là thu của đời thường, hoa cỏ toát mồ hôi, thu của chân lấm tay bùn ủ trong bụi, phân và đất: ”Nhạc reo xa thoáng lạnh từng chân tóc / Cỏ thu xa vuốt ve đôi mắt đẹp / Chiều có thể nghiêng, mưa có thể buông, đá có thể khóc... /... Nhổ khóm hoa vàng để mà được vục vào với bụi, với phân, với đất / Gió ợ mùi chua, tình đã dậy men, đất hình như mặn / Bông hoa thả chân trong bình cổ / Một chiếc lá đỏ mặt, một chiếc lá lên gân” (Mùa thu). Anh không chỉ yêu mùa thu mà còn mê mùa hạ, nên đã nhìn thấy mùa hạ chết để linh hồn lại trong lá sen tàn, rực cháy thành bông hoa thu: ”Lá sen tàn là hoa nở đầu thu“. Tản Đà xưa cuối hạ, chỉ nhìn thấy lá sen chết héo mà thương: ”Lá sen tàn tạ trong đầm”. Nay Lãng Thanh nhìn lá sen chết hóa vàng phục sinh, thành bông hoa thẫm đỏ. Tưởng lá sen chết mà lại sống, tưởng tàn tạ mà lá lại hoá son tươi, nồng nàn một kiếp hoa khác. Đó chính là cái nhìn xuyên qua mọi sự chết, phủ nhận mọi tàn úa, biến tắt lịm thành lóe sáng, biến cái hữu hạn thành vô hạn của Lãng Thanh. Nhà thơ là con thiêu thân của cái đẹp, cái hằng sống. Anh như cánh kiến hoa vàng mê mẩn giữa xanh xao, yếu đuối, trần trọi cuộc đời: ”Cánh kiến cánh mỏng như vàng quỳ / Đẹp và xanh xao, xanh xao vì đẹp, yếu đuối vì đẹp, trần trọi vì đẹp”. Anh còn biết đưa cái nhìn xuyên qua bụng cá: ”Cá quẫy trong bụng cá, cá chết trong bụng cá, cá đẹp trong bụng cá” để tìm kiếm đường bơi cho thi ca không chỉ trên mặt giấy.
Lãng Thanh yêu quê mình đắm đuối. Anh càng yêu hơn nét thiên nhiên cô quạnh, thương cái hoang vỡ đời này bằng những câu thơ chen lẫn hội họa và điêu khắc: ”Tôi đã yêu những mảnh trăng nằm lạnh đáy sông / Yêu ánh xà cừ cựa mình trên giấy điệp / Những lăng tẩm ngả nghiêng đền đài hoang vỡ / Mảnh gương đồng soi nửa mặt người; gốc gỗ lũa nham nhở kỳ dị / Bức tranh cổ rã bong tàn tạ, vài mảnh ghép ngây ngô / Và chiếc lông chim rơi chậm hơn những giọt mưa thánh thót“ (Những mảnh vỡ). Anh mượn cánh cò trắng làm chiếc dao, bổ đôi bầu trời như bổ một trái cam tặng cha mẹ, ông bà: ”Cánh cò trắng muốt cắt đôi bầu trời / Bầu trời bên trái che xuống mộ ông bà / Bầu trời bên phải kéo cha mẹ trở về ruộng đất quê tôi “( Những mảnh vỡ). Tôi yêu cái cách “chạy vùng vằng” của Lãng Thanh trên đồng đất trung du, một lối chạy rất mới, chân như vừa chạy vừa đôi co, cãi vã, làm lành với đất: ”Tôi chạy vùng vằng quanh cánh đồng nứt nẻ quê tôi / Rón qua những con mương đục như bát đất / Những ô cửa méo xệch như sắp rơi“ (Những mảnh vỡ). Chao ôi là “Những ô cửa méo xệch” của quê hương thực sự đã rơi vào thơ Lãng Thanh, đặng nhờ người đọc chở che, an ủi, nâng đỡ. “Những ô cửa méo xệch “ vì bị gió bấc quất hay bị thời gian phụ tình, bị chính ngôi nhà bỏ rơi? Tôi đã từng nhìn thấy bao nhiêu ô cửa trên mặt người méo xệch đớn đau, mà sao chỉ đến khi đọc những câu thơ này của Lãng Thanh, mới biết thi ca ít khi sống sau những cửa sổ đầy đặn.
Tình yêu quê hương trong thơ Lãng Thanh không hề dễ dãi, yêu đến nghẹn cả lòng, thắt cả ruột, yêu mà như khóc khi anh viết về tuổi thơ mình và tuổi thơ của những đứa con anh (giả tưởng) sắp được ra đời từ một mối tình gai góc: ”Có thể bây giờ nhưng cũng rất xa xưa / nhiều đứa trẻ mồ côi / -những đứa trẻ hồn nhiên - vừa ĐẸP vừa ĐÓI” (Thơ trước tuổi 21). Lãng Thanh ơi, anh từng là một “đứa trẻ hồn nhiên vừa ĐẸP vừa ĐÓI”, nay lại muốn kết nạp thêm những người yêu thơ anh vào hội này nữa sao?
Chúng ta đến thế giới để tìm cái ĐẸP hay để lấp đầy cơn ĐÓI - vực thẳm không đáy loài người luôn ngó xuống hoài nghi bản thân mình? Chúng ta đổ đầy cả thế giới vào dạ dày mà không hết đói: đói trí tuệ, đói tâm hồn, đói nhau, đói cơn đói kẻ khác, đói thiên đường và địa ngục. Và hãy xem nhà thơ, kẻ chết đói tình yêu viết về cơn đói khát được xẻ chia sự bất hạnh của kẻ khác, dù kẻ đó xa lạ như nắng, như mây, như khói: ”Nhà có người con gái đi mãi không về / Cửa gỗ nhỏ không mọc răng mà day day rứt rứt / Nắng ngang chừng, mây tới quãng, khói vừa hương“ ( Mùa thu). Tôi chợt nghĩ, cứ đà này, nhất định thi ca rồi sẽ làm cho “Cửa gỗ nhỏ” hằng “ray ray rứt rứt” đợi chờ cô gái về, sẽ biết cách mọc răng? Thơ vì thế biết dừng lại ở chỗ “... mây tới quãng, khói vừa hương” để nhường lối cho người đọc vào thi tứ.
Lãng Thanh từng bị ngòi bút mềm như gió quất roi, thậm chí bị hoa hồng đuổi đánh, phải chạy về nhà cầu cứu mẹ: ”Mẹ ơi! Ngòi bút của con mềm dịu như gió / Con phiêu lãng cùng non tận thủy / Nhưng những đóa hoa đánh con đau quá / Con trở về nhà băng vết máu đầy tay / Ngòi bút của con điên cuồng như gió“. Thơ như có giấu bùa ngải. Chữ nghĩa lồng lên cuồng dại như gương mặt hoa hồng phi “hỏa tiễn”, đuổi đánh tứa máu một hồn thơ. “Ngòi bút điên cuồng như gió”, “bông hoa đánh con đau quá” kia chừng như đã rước chàng thi sĩ về cõi khác không còn phải sợ hãi nỗi đớn đau? Lãng Thanh có thể đã bị giời xúi hay sao mà ưa viết những câu thơ tiên tri về sự ra đi vĩnh cửu của mình, những câu thơ bị đâm bằng nước mắt của bút điên, chữ cuồng: ”Buổi sớm mai trở dậy tim con mọc ở đằng Đông / Nét cuồng thảo vọt như máu, ngưng như lệ... /... Điên cuồng chữ bay, điên cuồng chữ bay, điên cuồng chữ bay”.
Người xưa bảo “thi trung hữu quỷ” quả không ngoa. Khi Lãng Thanh viết những câu thơ này “Sông chảy dài như oan hồn”, hay “Phất phơ thu già lúa nghẹn đòng / Cắt ruột cho lòng thiếp xanh“ hoặc “-Tấm ơi! Chị mò cua tay mọc đầy hoa, chị là yêu tinh / Quả thị dựng tóc. Ay dà, miệng nhỏ xinh xinh“... thì quả là thơ anh có con ma... rình trong chữ nghĩa thật. Lãng Thanh còn nhiều câu thơ hay khác, nằm cô đơn giữa các trang giấy, ví dụ như: ”Nước mắt hung dữ như một viên đạn bắn trượt”, “Hai mặt người lăn tròn vào nhau như hai bánh răng”, “Lá rơi vì gió sao lá rơi vào giếng”, “Ngôi nhà lạnh toát như một thứ vũ khí / Đi trên đường như bước giữa hai họng súng”, “Sốt râm ran như tiếng hát tương tư “, “Thõng đôi tay khô chết như nhân sâm“, “Mẹ đang choàng chiếc khăn mười sáu tuổi“... Thơ Lãng Thanh vừa lạ, vừa hay.
Có thể nói, “Hoa” là một tập thơ hay trên tổng thể. Tuy nhiên, nó vẫn còn những câu kém, một số bài trung bình, thậm chí dở. Cái phần tinh túy của tập di cảo thơ này chính là sự vượt lên của Lãng Thanh so với một số bạn thơ trẻ cùng lứa khác. Dù vài ba nhà thơ trẻ nào đó được một số đàn anh cực đoan cho là hiện đại, được “lăng xê” với những mục đích khác nhau, thậm chí đôi khi với những dụng ý ngoài văn học, thì họ vẫn rất khó “đứng” một mình, đi đâu cũng phải vịn vào cây gậy “thổi phồng” kia. Thực ra, thơ họ có thể lạ, thậm chí xin bái phục vì họ đã học được phép đuổi sạch trơn sự hiểu và cảm xúc ra ngoài thơ; nhưng phần hồn của thơ là truyền cảm, là hay thì vài ba quý vị tân thời kia chừng như chưa đạt tới.
Khi một nhóm thơ trẻ - cách tân nào đó đang khủng hoảng, tắc tị, đưa thơ vào chốn sơn cùng thủy tận, thậm chí tục tĩu, thì may mắn thay, Lãng Thanh đột ngột từ cõi chết hiện về, tặng chúng ta một bó “HOA” thơ đích thực. Khi sống, Lãng Thanh gần như vô danh, như anh viết về mình rất “gở”: ”Lặng lẽ đi đến một ngôi mộ cũ - cô đơn / Không có tình yêu, không danh vọng”. Sau khi anh chết, nhóm thơ Chí Tâm bạn bè đã đưa một phần di cảo thơ anh đến với NXB Thanh Niên; biến anh thành người của công chúng. Thơ anh hiện đại mà cổ điển, lạ mà dễ hiểu, hài hòa CẢM và NHẬN, ví như trong bài thơ “Mắt mẹ rợn da trời” tả bà mẹ ngồi nhìn đứa con vừa chết: ”Ánh mắt người mẹ nhìn con / Sừng sững và cổ thụ / Ánh mắt trải rộng một niềm thương da diết đến mức bầu trời có thể mọc lông tơ như mênh mông một tấm da người“.
Lãng Thanh ơi, cảm ơn anh đã trải lên cao xanh đầu tôi “mênh mông một tấm da người” là bầu trời hài nhi đang lấm tấm mọc lông tơ! Đấy là món quà quý giá nhất anh trối lại, tặng những người yêu thơ anh, như một thông điệp: hãy ngó xuống trang thơ để tìm cách ngước lên bầu trời.

Thành phố Hồ Chí Minh 15-6-2003
Trần Mạnh Hảo

CAO HUY KHANH - VN HỒ SƠ HẬU CHIẾN 1975 - 2012 ( Kỳ 118)

NHỮNG SỐ PHẬN KỲ LẠ
1.181 - Brian Cleaver
CỰU BINH ÚC ĐI TÌM HÀI CỐT BỘ ĐỘI
Cựu binh Úc về hưu. Sống ở Uc (2012).

Năm 1968 là lính viễn chinh Úc đóng quân ở Bình Dương sau một trận đụng độ với bộ đội VN đã tận mắt chứng kiến 42 thi hài quân địch để lại sau đó được đơn vị Úc chôn dưới một hố bom trong địa phận xã Bình Mỹ.
Sau đó theo quân Úc rút về nước.

Đến năm 2002 cùng đồng đội John Bryant trở lại địa điểm cũ với mục đích truy tìm ngôi mộ bộ đội tập thể đó để tìm cách báo lại cho thân nhân của họ biết. Tự bỏ tiền túi trang trải mọi chi phí, có được các đồng đội cũ hỗ trợ chút ít.

Nhưng dù mang theo các tư liệu ghi chép còn lại (có cả ảnh chụp hồi đó nữa) nhưng qua 10 năm đã 8 lần đến Bình Dương vẫn chưa tìm được tung tích nấm mồ đó do thời gian qua khung cảnh nơi đây thay đổi quá nhiều. Đã tiến hành đào xới 5 hecta trong khu vực song ngẫu nhiên chỉ khai quật được một nấm mộ bộ đội thì lại không thuôc số 42 người kia.

Thay vào đó nhờ sự hợp tác của địa phương và đơn vị quân đội phụ trách công tác liệt sĩ đã tìm ra được thân nhân của 33 bộ đội trong số người tử trận.

Công việc tìm kiếm đến nay vẫn còn tiếp tục với 2 cựu binh nước ngoài vì “Nếu tôi là một trong những người lính mất tích đó thì tôi cũng hy vọng có ai đó sẽ tìm kiếm hài cốt mình. Việc tôi làm sẽ giúp những người đã hy sinh có thể sống một đời sống khác ở đó họ được sống trong hòa bình chứ không phải sống với súng đạn và mồ chôn tập thể.”

1.182 - Hạ Đình Nguyên
TÙ 2 CHẾ ĐỘ
Doanh nhân sinh khoảng 1948. Sống ở TPHCM (2012).


Thời chống Mỹ là sinh viên ĐH Văn khoa Sài Gòn khoa Triết tham gia phong trào sinh viên học sinh xuống đường biểu tình phản đối chế độ Thiệu – Kỳ theo Mỹ, được cử giữ chức Chủ tịch Ủy ban Tranh đấu của sinh viên Sài Gòn. Vì vậy nhiều lần bị cảnh sát bắt giam.

Từ đó sau 1975 làm việc trong Thành đoàn TPHCM rồi được chuyển công tác qua làm phó giám đốc một công ty đầu tư thương mại khi Miền Nam bắt đầu chuyển đổi cơ chế kinh tế đổi mới làm ăn thoáng hơn.
Nhưng không hiểu vì lý do gì một thời gian sau lại… bị bắt đưa ra tòa lãnh án tù vì tội kinh doanh phạm luật bất hợp pháp! Có dư luận cho đó là vì cung cách làm ăn “xé rào” kiểu mới của Miền Nam chưa được Miền Bắc chấp nhận hoàn toàn nên dựa vào cơ chế cũ để kết án! Đồng thời cũng có ý kiến do mâu thuẫn nội bộ trong cơ quan đấu đá lẫn nhau (?).

Sau khi ở tù về vẫn được Thành đoàn chiếu cố đưa đi làm giám đốc một trung tâm cai nghiện thanh thiếu niên. Từ đó có kinh nghiệm tách ra lập công ty tư nhân chuyên làm việc này gặp thời sống khỏe.
Song song đó rất hăng hái cổ vũ việc xuống đường phản đối Trung Quốc âm mưu xâm lấn VN giống như thời Mỹ – Ngụy đi biểu tình chống Mỹ. Nhưng bây giờ thời thế đã đổi khác rồi, chuyện đó lại bị chính quyền hiện hành… không cho phép!

1.183 - Mã Tuyên
TỘI CHÍNH TRỊ HỌA VÔ ĐƠN CHÍ KÉO DÀI
Doanh nhân gốc Hoa sống ở Sài Gòn – Mất 1994 tại TPHCM.

Đây chính là ân nhân của anh em cố Tổng thống Ngô Đình Diệm trong cuộc đảo chính năm 1963 dẫn đến cái chết thảm của 2 anh em nhà họ Ngô.
Nguyên là một cộng tác viên đắc lực của Cố vấn Ngô Đình Nhu em tổng thống. Có thông tin nói nhà đương sự là nơi đuợc NĐ Nhu đặt làm trung tâm liên lạc với Mặt trận Giải phóng Miền Nam chuẩn bị cho giải pháp khi cần có thể “bắt tay” hợp tác nhằm thoát khỏi ảnh hưởng khống chế của Mỹ.
Trong biến cố tướng Dương văn Minh cầm đầu phe đảo chính lật đổ NĐ Diệm năm 1963, anh em tổng thống đã bí mật theo đường hầm thoát ra khỏi dinh Độc Lập đến tá túc tại nhà Mã Tuyên một đêm để sáng hôm sau được đương sự cho tài xế lái xe đưa đến điểm thương lượng với nhóm đảo chính (nhưng kết quả cả 2 anh em bị giết chết tại chỗ kiểu “nhổ cỏ nhổ tận gốc” một cách dã man).
Từ đó đương sự liên lụy bị phe đảo chính bắt giam 3 năm và tịch thu tài sản. Mãn hạn tù trở về làm ăn bình thường như xưa.
Nhưng đến khi Cách mạng vào lại bị bắt giữ 4 tháng rồi thả ra. Tuy nhiên tiếp đó bị… bắt lại, lần này giam đến 4 năm ở nhà tù Chí Hòa, nhà cửa bị tịch thu hết.
Sau khi được thả ra, năm 1983 cùng gia đình (3 vợ 13 con) được phép xuất cảnh trở về quê quán định cư ở Đài Loan.
Dù vậy, năm 1992 lại quay lại Chợ Lớn sống nốt quảng đời còn lại với bạn bè cũ. Trước khi mất còn căn dặn kỹ phải chôn trong khu nghĩa trang “Nhị tì Triều Châu” của người Hoa ở Biên Hòa dể vĩnh viễn nằm lại trên mảnh đất quê hương thứ hai dù nơi đây đã mấy lần đày đọa mình quá oan!

1.184 - Trần Thái Đỉnh
LÝ THUYẾT GIA TRIẾT HỌC HIỆN SINH
Giáo sư đại học sinh 1922 tại Hưng Yên – Mất 2005 ở TPHCM (84 tuổi).
Xuất thân tu sĩ Thiên Chúa giáo được Giáo hội cử đi du học Pháp từ năm 1953 về thần học và triết học.
Nhưng khi làm luận án tiến sĩ lại chọn đề tài về Phật giáo. Và tốt nghiệp tiến sĩ 1958 về nước đi dạy triết học ở ĐH Đà Lạt, Huế và Sài Gòn lại trở thành người đầu tiên truyền bá chủ nghĩa hiện sinh vào VN. Còn viết báo phổ biến tư tưởng này trên tạp chí Bách Khoa ký Trần Hương Tử.

Từ giáo trình dạy đại học in thành nhiều sách giáo khoa lẫn chuyên luận triết học phương Tây có giá trị tiên phong thời đó như các cuốn về triết học hiện sinh, Descartes, Kant, cơ cấu luận…
Sau 1975 vẫn được giữ lại dạy đại học nhưng chuyển qua môn Pháp văn.
Cởi áo dòng lấy vợ bán hàng tạp hóa, sinh được 3 con trai (có con thứ ba đi tu). Còn làm thêm tham gia đánh đàn phong cầm ở nhà thờ và dịch tài liệu đạo Thiên Chúa.
Mắc bệnh ung thư kéo dài 5 năm mới mất.
Một số tác phẩm đã được chế độ mới in lại từ năm 2006 như “Triết học Descartes”, “Triết học Kant”…

1.185 - Trần Thành Trai
CHUYÊN GIA MỔ TÁCH ĐÔI TRẺ SONG SINH
Bác sĩ sinh 1938 tại Tiền Giang. Sống ở TPHCM (2012).


Thiếu tá bác sĩ quân y VNCH sau Giải phóng đương nhiên đi cải tạo 3 năm.
Ra trại cuối năm 1078 về lại TPHCM được nhận ngay vào làm bác sĩ khoa ngoại ở Bệnh viện Nhi đồng 1. Từ đó gắn bó với bệnh viện, bệnh nhi dù trong thời điểm đó đang rộ lên phong trào vượt biên trong đó bác sĩ chiếm số lượng đông trong giới trí thức.

Đã có nhiều thành tựu chuyên môn đáng kể trong việc điều trị bệnh nhi như về phương pháp phẫu thuật chỉnh hình hở hàm ếch cho các em, đặc biệt về các ca mổ tách trẻ sinh đôi qua các ca Song – Pha, Đào – Điệp, Việt – Đức (cùng mổ với bác sĩ Trần Đông A cũng cựu sĩ quan quân y VNCH).
Được bầu vào Quốc hội khóa 11.
Dù ở bất cứ cương vị nào vẫn làm việc với tinh thần cống hiến khiêm tốn: “Tôi chỉ như một ngôi sao vụt sáng trên bầu trời y học rồi chìm vào cái mênh mông của vũ trụ. Tôi thấy thật thanh thản với chặng đường đã qua.”

1.186 - Trần Thị Bé
“ĐỜI CÁT”
Lao động nghèo khuyết tật sinh 1969 tại Quảng Trị. Sống ở Quảng Trị (2012).
Năm 1972 chạy nạn chiến tranh vào trại tạm cư.
Một hôm cả gia đình đang ngồi ăn cơm bị một trái lựu đạn ném vào nổ tung làm mẹ và 5 anh chị em chết tại chỗ, cha bị thương nặng. Còn mình mới 3 tuổi bị cụt 2 chân.

Sau chiến tranh cùng cha trở về nhà cũ ở thị trấn Đông Hà dựng lại mái nhà tranh rách nát tá túc qua ngày giữa vùng đồi cát chập chùng xứ gió Lào nắng rát.

Học tiểu học được cha cõng đến trường, lớn lên nghỉ học ở nhà tìm cách kiếm sống quá vất vả do làm gì hay đi đâu cũng chỉ nhờ 2 tay lết đi. Nhiều khi quá chán nản muốn tự tử chết cho xong song lại thương cha già nên thôi không đành: “Tôi tuổi con gà. Gà chỉ nhờ 2 chân để kiếm ăn, vậy mà con gà tôi mất cả 2 chân!”
Năm 1990 lúc 18 tuổi được giúp đỡ lắp cho chân giả nhưng đi không quen mà còn dễ gây đau nhức (do một số mảnh đạn vẫn còn nằm sâu trong vết thương) nên vẫn thường lết đi như cũ nhanh và thuận tiện hơn.
Năm 1992 bố đi lấy vợ khác nên chỉ còn lại một mình tự lo liệu mọi việc.

Đến năm 1994 được một nhà từ thiện người Bỉ đưa đi mổ, gắp hết các mảnh đạn ra rồi lắp cho chân giả khác loại tốt hơn. Tuy vậy vẫn đi đứng nặng nề, chậm chạp.
Sống bằng nghề khập khiễng đi bán gia vị ở chợ ngày no ngày đói thất thường,
Ngẫu nhiên năm 1999 đạo diễn Nguyễn Thanh Vân từ Hà Nội về nơi đây quay bộ phim truyện nhựa “Đời cát” (kịch bản Hữu Phương – Nguyễn Quang Lập, diễn viên Công Ninh, Mai Hoa) về đề tài thời hậu chiến xảy ra trên vùng đất này trong đó có một nữ nhân vật… giống hệt đương sự cũng cụt 2 chân sống đời nghèo khổ cô đơn giữa trũng cát bao la mịt mù. Gặp được nhân vật đó ngoài đời quá tốt, thế là bản thân trở thành… diễn viên điện ảnh bất đắc dĩ, được mời vào đóng vai y như cuộc đời thực của mình!
Chỉ năm sau phim đoạt Giải thưởng Điện ảnh VN 2001.

Nhờ đó được nhiều người biết đến, cảm thương số phận bất hạnh hẩm hiu nên góp sức giúp đỡ cho cuộc sống dễ thở hơn. Còn được tổ chức từ thiện quốc tế hỗ trợ người khuyết tật cho đi một chuyến tham quan nước ngoài đến Luxembourg.
Nhưng qua “kinh nghiệm” đóng phim rút ra bài học quý báu nhất từ đó đã nảy ra ao ước như nhân vật nữ trong phim là có… một đứa con để an ủi tuổi già. Thế là quyết tâm xin một đưa con nuôi: “Cần nhất là một đứa con để trông cậy lúc tuổi già và đó cũng là nghị lực giúp tôi sống”.
Đứa con gái đặt tên là Phong An nghĩa là cầu cho “ngọn gió an bình” thổi đến đời con thay vì bao phong ba bão táp đã quất vào đời mẹ.
Rồi xin thêm một đứa con trai nữa cho “đủ nếp đủ tẻ” với niềm hy vọng: “Đời con sẽ không là đời cát, lăn lóc qua gió bụi trần ai như mẹ.”
Để nuôi con, mở quán bán nước. Từ đó niềm vui sống được nâng lên, còn tích cực tham gia thi đấu thể thao người khuyết tật giành được nhiều huy chương đua xe lăn, ném lao, ném đĩa, đẩy tạ…

1.187 - Trần Thị Cẩm Giang
MÁI ẤM THIỆN DUYÊN
Cán bộ về hưu sinh 1938 tại Sài Gòn. Sống ở TPHCM (2012).

Sinh ra trên đất Củ Chi vách thép thành đồng nên từ năm 14 tuổi đã tham gia họat động Cộng sản, làm giao liên, thanh vận rồi Hoa vận. Đã mấy lần bị địch bắt giam tra tấn vẫn giữ được ý chí kiên cường không khai báo.

Sau ngày Giải phóng, được cho đi học rồi về làm cán bộ phường.

Thời gian này có dịp chứng kiến thảm cảnh nhiều em bé mồ côi chịu di chứng CĐDC quá tội nghiệp nên mới nhận vài em về nhà nuôi. Không ngờ nuôi trẻ rất “mát tay” nên được nhiều gia đình quen biết có con mắc bệnh tương tự tỏ ý muốn nhờ nuôi giùm.

Nhưng phải chờ đến lúc về hưu mới có thì giờ làm chuyện này. Khi đó liền quyết đinh bán căn nhà được cấp ở thành phố lấy tiền về quê Củ Chi xây một khu nhà trên đất hương hỏa biến nó thành một cơ sở chuyên nuôi trẻ em nhiễm CĐDC, khuyết tật, bại não, tâm thần đặt tên là “Mái ấm Thiện Duyên”. Bà con đều kính phục gọi là “Má Mười”.

Đến năm 2007 nơi đây đã có hơn 120 em như vậy được Má Mười nuôi dưỡng. Để có tiền lo cho các cháu, má phải làm thêm tương hột, muối tiêu đem đi bỏ mối đồng thời còn nuôi heo gà, trồng nấm bào ngư đem ra chợ bán.

Được cái là nhiều mạnh thường quân khắp nơi nghe tiếng đã tìm đến ủng hộ, giúp đỡ một tay…

1.188 - Trần Thị Hiền
“HIỀN 58”
Lao động nghèo sinh tại Thừa Thiên – Huế. Sống ở Thừa Thiên – Huế (2011).

Lúc 15 tuổi đã đi du kích đánh Mỹ rồi chuyển qua bộ đội trên chiến trường Bình Trị Thiên.

Năm 1973 trong khi làm công tác vận chuyển lương thực đã bị trúng bom bi máy bay Mỹ thả. Bị vùi xuống hố đất, đồng đội tưởng chết rồi may mà còn nòng súng nhô lên khỏi mặt đất có người nhìn thấy mới đào đất lên cứu sống kịp thời.

Nhưng đưa vào bệnh viện chỉ cứu chữa tạm chứ không có đủ phương tiện để mổ lấy hết vô số mảnh bom còn nằm sâu trong cơ thể. Tính ra còn đến… 58 mảnh bom như vậy, nguy hiểm nhất là 2 mảnh ghim trong phổi, 2 mảnh chui vào tâm mạc tim và 11 mảnh khác rải rác trong đầu.

Sau chiến tranh, xuất ngũ thương binh nặng về làng (thị xã Hương Trà) lấy chồng là bộ đội trinh sát mất sức sinh được 6 con. Cả nhà sống bám vào một sào ruộng mà tiền trợ cấp chẳng bao nhiêu không kham nổi cơn lốc đời sống thời hậu chiến bao cấp nên con cái đều mù chữ, nhà cửa rách nát xập xệ.
Đã vậy, bản thân còn bị 58 mảnh bom “lưu tồn” hễ gặp trái gió trở trời là gây đau đớn toàn thân, đầu óc nhức như búa bổ, muốn đi bệnh viện mổ gắp ra thì biết lấy đâu ra tiền nộp viện phí? Bởi vậy đành chấp nhận sống chung với… mảnh bom Mỹ, từ đó nổi danh là bà “Hiền 58”!
Chưa hết, năm 2011 đứa con trai út bị phát hiện bệnh suy thận cấp, chở vào Huế chữa trị chỉ còn cách đi chạy thận mỗi tuần 3 lần, mỗi lần tốn hơn 3 triệu đồng. Muốn giải phẫu thì phải 300 triệu.

Chỉ lo tiền chạy thận cho con còn không nổi, chạy đôn chạy đáo mượn nợ khắp nơi riết rồi không ai dám cho vay nữa bởi biết lấy gì mà trả nổi. Đó là món nợ kéo dài lây lất từ thời chiến tranh qua đến thời hậu chiến mà ít ai có thể trả nổi.

1.189 - Trần Thị Thuấn
30 NĂM GẶP LẠI CHỒNG SỐNG CŨNG NHƯ CHẾT
Cán bộ về hưu sinh 1931 tại Quảng Ngãi. Sống ở TPHCM (2007).
Tham gia Cách mạng từ thời chống Pháp.
Năm 1947 lập gia đình với một bộ đội cùng quê. Đến đầu năm 1948 chồng nhận nhiệm vụ qua chiến trường Lào rồi từ đó mất liên lạc luôn.
Sau 1954 vẫn còn ở quê Quảng Ngãi tiếp tục hoạt động quân báo cho Cộng sản, nuôi giấu cán bộ trong vùng địch. Đến 1965 được lệnh mở rộng mạng lưới hoạt động nằm vùng, làm giao liên qua tỉnh Quảng Nam.
Sau ngày Giải phóng tiếp tục nhận nhiệm vụ mới ở quê nhà, hết lòng trông ngóng tin chồng song vẫn không một tăm hơi.
Bất ngờ tháng 6.1976 mới được người báo tin cho biết chồng đang bị thương nặng nằm viện quân y tại TPHCM. Bấy giờ mới hay sau 1954 chồng được điều từ Lào về hoạt động trên Tây Nguyên rồi cuối năm 1968 về lại Hà Nội, sau đó đưa lên Việt Bắc. Qua tháng 3.1975 được bổ sung vào chiến trường Miền Nam nhưng trên đường tiến vào Sài Gòn xe gặp tai nạn khiến bị thương trầm trọng đã đưa vào bệnh viện quân y.
Bản thân nghe tin như sét đánh ngang tai vội vào TPHCM gặp lại chồng đang nằm viện trong tình trạng hôn mê bất tỉnh do bị chấn thương sọ não quá nặng. Liền xin cơ quan cho chuyển công tác vào bệnh viện trong này để tiện việc chăm sóc cho chồng.
Nhưng cả một năm dài chăm bệnh cho chồng mà chồng vẫn không lai tỉnh, chỉ nằm liệt một chỗ nhìn vợ lặng lẽ mà không nói năng được tiếng nào! Đúng một năm sau thì ra đi, không lời trăn trối từ giã.
Đã vậy không hiểu sao chồng không được làm thủ tục chứng nhận liệt sĩ, không được hưởng bất cứ chính sách, chế độ nào qua hơn 31 năm nay. Có lẽ vào thời điểm giờ chót cuộc chiến tranh, ông đã bị “bỏ quên” bên lề lịch sử (đồng đội chỉ kịp đưa vào viện rồi phải nhanh chân theo đoàn quân tiến vào Sài Gòn)!
Nỗi buồn mất chồng còn cộng thêm nỗi buồn thế sự càng chất nặng trên đôi vai còm cõi của người vợ già đã bỏ cả gần hết cuộc đời cống hiến cho lý tưởng.

1.190 - Trần Tôn Trung Sơn
NGƯỜI KHÔNG TAY HỌC HỌC VIỆN CÔNG NGHỆ MIT
Sinh viên sinh 1991 tại Quảng Trị. Du học Mỹ (2009).
Sinh ra bên dòng Bến Hải, được cha đặt tên Trung Sơn để ghi nhớ tên xã quê hương thuộc huyện Gio Linh.
Cha là bộ đội trên chiến trường Lào bị nhiễm CĐDC nên khi con mới ra đời đã chịu cảnh khuyết tật nặng gần như không có 2 cánh tay: Cánh tay trái chỉ có mỗi… bàn tay lại… mọc sát nách, còn cánh tay phải chỉ ngắn đến khuỷu tay với bàn tay chỉ có 2 ngón tay.
Vì thế năm 1992 cha mẹ phải xin đưa vào Làng Từ Dũ ở TPHCM chuyên nuôi dưỡng trẻ em nạn nhân CĐDC. Còn cha mẹ ra ngoài đi làm thuê, tối ngủ công viên để còn có điều kiện thỉnh thoảng đi thăm con.
Dù vậy vẫn nỗ lực học hành rất giỏi. Lớp 5 là học sinh giỏi toàn thành môn toán và tiếng Việt, thi vào trường THPT ở quận Tân Bình đậu thủ khoa, lên cấp trung học là học sinh giỏi toán, văn, Anh văn. Còn học cả võ taekwondo đạt đai nhất đẳng.
Vào đại học ngành công nghệ thông tin TPHCM vừa đi học vừa làm công ty phần mềm.
Năm 2009 được học bổng đi học Học viện Công nghệ MIT nổi tiếng ở Mỹ chuyên ngành trí tuệ nhân tạo là ngành tiên tiến hiện đại nhất mà VN còn hiếm chuyên viên. Hy vọng trí tuệ nhân tạo sẽ thay cho 2 cánh tay mất mát.
(Còn tiếp)

VỀ KHẨU HIỆU "TIÊN HỌC LỄ HẬU HỌC VĂN "- LẠI NGUYÊN ÂN

VỀ KHẨU HIỆU “TIÊN HỌC LỄ HẬU HỌC VĂN”
Thế hệ tôi, sinh trưởng ở miền Bắc, đi học trường phổ thông 10 năm (từ lớp 1 đến lớp 10) vào những năm 1954-1964, thì khẩu hiệu “tiên học lễ hậu học văn” hầu như không để lại ký ức gì. Là vì ở miền Bắc thời đó, những gì được xem như gắn với “tư tưởng phong kiến” đều bị coi là lạc hậu, cần tránh xa, cần chống lại; mà “tiên học lễ hậu học văn” thì rõ ràng là tư tưởng Nho giáo, là thuộc hệ tư tưởng phong kiến rồi! Cho nên dễ hiểu là không hề thấy khẩu hiệu “tiên học lễ hậu học văn” xuất hiện trong khuôn viên bất cứ ngôi trường nào trên miền Bắc thời gian ấy; cũng hầu như không có giáo viên hay cán bộ nào trong ngành giáo dục thời ấy dám nói đến khẩu hiệu đó trước các đám đông. Tôi cũng chưa đọc thấy trong hồi ức những người lớn lên và đi học tiểu học, trung học ở miền Nam vào quãng thời gian ấy nói rằng khẩu hiệu kể trên có ghi đâu đó trong khuôn viên các ngôi trường.

Tất nhiên, đừng nghĩ rằng vì khẩu hiệu đó không “hiển thị” trong cộng đồng thì tư tưởng ngụ trong khẩu hiệu ấy không chi phối tâm thức người dạy, người học, và nói chung, tâm thức cộng đồng thời ấy.

Nhưng cần ghi nhận sự thực vừa kể về sự không hiện diện khẩu hiệu “tiên học lễ hậu học văn” trong khuôn viên trường học. Và đến sau tháng 4/1975, tình hình vừa nêu lại cũng phổ cập vào nhà trường từ vĩ tuyến 17 trở vào đến chót mũi Cà Mau.

Thế thì khẩu hiệu “tiên học lễ hậu học văn” đã “sống lại” trong ngành giáo dục Việt Nam từ bao giờ? Nó được thể hiện như ta thấy hiện nay trên rất nhiều (rất nhiều chứ không phải toàn bộ) khuôn viên các ngôi trường từ Bắc chí Nam là từ khi nào? Do ai? Do chủ trương của ngành giáo dục hay do “sáng kiến” tự động, tự phát của các trường?

Theo sự ghi nhận – như một dữ liệu nghiên cứu – của tác gia Trần Đình Hượu (1927-1995) thì vào năm 1973, nhà giáo Nguyễn Lân (1906-2003) viết bài “Có nên vận dụng phương châm “tiên học lễ hậu học văn” trong việc giáo dục thế hệ trẻ của ta ngày nay không?” (đăng tạp chí “Văn hóa nghệ thuật” ở Hà Nội, số 31, tháng 7/1973) mà động cơ viết bài này, theo lời của chính tác giả Nguyễn Lân, là do thực tế “một số trẻ em không ngoan, trong nhà thì bướng bỉnh với cha mẹ, ra đường thì hỗn láo với mọi người, đến trường thì xấc xược với thầy giáo” (trích bài báo đã dẫn). Ngay sau khi bài báo này xuất hiện, trên báo “Tiền phong” của T.Ư. Đoàn (số 2351, ra ngày 16/8/1973) có bài báo dài của tác giả Thanh Bình nhan đề “Quét sạch những tàn dư tệ hại của Khổng giáo”, với những kết luận chém đinh chặt sắt: “… chúng ta không thể dung hòa được với Khổng giáo cùng với hệ tư tưởng phản động và bảo thủ của nó”, … “chúng ta phải kiên trì đấu tranh để quét sạch nó ra khỏi mọi lĩnh vực của đời sống xã hội như quét sạch những đống rác bẩn vậy”!

Tiếp theo bài này, báo “Tiền phong” còn định ra cả một loạt bài khác nữa để công kích sự đề xuất kể trên của nhà giáo Nguyễn Lân, nhưng thủ tướng Phạm Văn Đồng đã can thiệp dừng lại.[1]

[Những năm 1970, thái độ chính thống đối với Nho giáo nói chung và các tư tưởng của nó, ngoài việc duy trì định hướng “phản phong” vốn được đề ra từ trước, có lẽ còn được tăng cường do việc cảnh giác đề phòng “cách mạng văn hóa” qua của Hữu Nghị tràn vào đồng bằng sông Hồng!]

Trở lại câu hỏi: khẩu hiệu “tiên học lễ hậu học văn” xuất hiện trở lại trong ngành giáo dục từ khi nào? Thật chi tiết về việc này, nhất là khía cạnh “là chủ trương hay do tự phát” mà khẩu hiệu này được trương cao trên khuôn viên các ngôi trường? – thì cần có xác nhận của những người ghi sử ký ngành giáo dục (hiện ở ngành này bộ này có vị trí người ghi biên niên hay không?).

Đứng ngoài quan sát như tôi và phần đông bạn đọc, thì khẩu hiệu này có lẽ đã tái xuất hiện trong nhà trường Việt Nam từ những năm 1990. Mấy năm cao trào đổi mới có một số đề xuất cải cách giáo khoa, nhất là môn Văn, sao cho bớt khô cứng, chứ chưa nêu đến quan hệ thầy trò hay việc tăng trọng môn đức dục.

Phải tới những năm 1990, bước vào thời kinh tế thị trường ít lâu, thu nhập của dân cư mấy đô thị lớn khá lên, việc đầu tư cho sự học hành của con cái dần dần được chú trọng hơn, đương nhiên các bậc phụ huynh phải chú ý tới các thầy giáo cô giáo dạy dỗ con em mình. Chuyện dạy thêm học thêm diễn ra từ lâu, bất chấp sự ngăn trở hay khuyến khích, dần dần đã tạo ra một thị trường dạy học. Không ít giáo viên cải thiện được đời sống, tức là bù được phần lương quá nhỏ bé, bằng việc dạy thêm; lại có những ông thầy kiếm được tiền tỷ, mua nhà mua đất, sắm được tiện nghi đắt tiền, nhờ dạy thêm; đấy là sự thật; cũng như cái sự thật là ở từng vùng, các vị phụ huynh đều biết với mỗi môn nào thì có những thầy nào dạy giỏi, nên đưa con em đến học. Chính là lao động của những người thầy, bất luận trên giảng đường chính khóa hay trên các phòng dạy thêm, đã nâng giá trị người thầy trong cộng đồng, trước hết là trong con mắt những người có con em đang đi học. Ta cũng còn chưa thể kiểm chứng được giá trị của những thầy giỏi này, một khi cơ chế thi cử không còn nặng nề như bấy lâu nay.

Tất nhiên những phụ huynh thuộc loại nghèo hoặc hơi nghèo sẽ có lúc phải thấy “ghê răng” khi tính đến việc đưa con em mình tới học thêm ở những ông thầy được tiếng là giỏi nhất, nhiều học sinh đỗ đạt nhất, vì những mức giá học phí không hề thấp. Chính là tất cả những điều này, đặt trong kiểu thức học và thi hiện thời, đã nâng giá người thầy, cả khía cạnh dở lẫn khía cạnh hay.

Có thể nói, tâm lý coi trọng và đề cao người thầy và lao động dạy học chính là cơ sở tâm lý xã hội khiến cho khẩu hiệu “tiên học lễ hậu học văn” từ chỗ bị cấm đoán miệt thị trong “đêm dài bao cấp”, lại bỗng chốc được nêu cao trên khuôn viên các ngôi trường vẫn được những người quản lý nó mệnh danh là “nhà trường xã hội chủ nghĩa”.

Tất nhiên, như đã nói, điều đã khiến các ban quản trị nhà trường dùng đến khẩu hiệu trên, còn là những lo ngại về tình trạng được gọi là “xuống cấp” đạo đức xã hội có vẻ như biểu hiện ngày càng nặng và đáng báo động trong nhà trường, tuy rằng ban đầu người ta chỉ nhấn mạnh chuyện học trò hư, vô lễ, chứ rất khó khăn để ghi nhận các chuyện không hay trong giới giáo viên.

***
Thế nhưng có nên tiếp tục trương cao khẩu hiệu “tiên học lễ hậu học văn” cả trên khuôn viên các ngôi trường Việt Nam hiện nay cũng như trong lời nói hàng ngày hay không?

Tôi vẫn chưa quên cảm giác gì đó rất không thoải mái mỗi khi nhìn thấy khẩu hiệu “tiên học lễ hậu học văn” được sơn vẽ sao cho kích cỡ thật lớn, lại đặt ở vị trí đáng chú ý nhất, tại các ngôi trường Việt Nam.

Vì sao vậy? Vì nó lời lẽ bằng ngôn từ Hán Việt, không phải lời lẽ thuần Việt. Vì nó gắn với những thời kỳ rõ ràng là đã qua của giáo dục Việt Nam. Vì nó ngày càng bộc lộ yếu tố vay mượn ngoại lai mà cũng ngày càng rõ là không nên tiếp tục.

Nếu bảo ta vẫn có thể dùng “tiên học lễ hậu học văn” như khẩu hiệu trong giáo dục bởi nền giáo dục ta từ ban đầu vốn chịu ảnh hưởng Trung Hoa; thì cần đáp lại rằng: đúng là giáo dục ở Việt Nam xa xưa thuở ban đầu chịu ảnh hưởng giáo dục Trung Hoa, tiếp nhận cái học của Nho giáo, trong ngàn năm Bắc thuộc và suốt 9 thế kỷ các nền quân chủ độc lập. Nhưng từ cuối thế kỷ XIX và nhất là từ đầu thế XX, nền giáo dục ở Việt Nam đã chuyển sang tiếp nhận giáo dục của châu Âu, trực tiếp là của Pháp. Cho đến ngày nay, thử nhìn xem toàn bộ học vấn mà 12 lớp thuộc hệ nhà trường phổ thông của ta cung cấp cho học sinh là nguồn từ đâu? Rõ ràng có ít ra đến 99% các tri thức là từ nguồn Âu-Mỹ! Hãy xem từng môn vật lý, hóa học, toán, thực vật, động vật, … các tri thức là lấy từ đâu? Chắc chắn không lấy từ Khổng (Nho), Đạo hay Lão Trang. Chằng riêng gì ta, giáo dục phổ thông ở Hàn Quốc, Nhật Bản, ở chính Trung Hoa, Đài Loan, cũng đều như vậy. Vậy là về giáo dục thì toàn bộ các vùng châu Á trong đó có ta đều đã “thoát Á” rồi, có còn là kiểu trường học “chi hồ giã giả”, học tứ thư ngũ kinh, học viết văn bát cổ,… nữa đâu? Chẳng riêng gì châu Á, mà khắp hành tinh chúng ta, hệ thống các tri thức dạy cho các trường phổ thông, đều có nguồn Âu-Mỹ. Vậy thì nhà trường hiện tại đâu có còn dính líu gì nhiều với Nho giáo mà toan quay lại dùng các phương châm, khẩu hiệu rút từ nó?

Cốt lõi mệnh đề “tiên học lễ hậu học văn” là nhấn mạnh việc trau dồi tư cách đạo đức bên cạnh việc học lấy tri thức và kỹ năng. Đây là một phương châm không riêng gì của giáo dục ở phương Đông. Nhưng cách diễn đạt lấy chữ “lễ” đại diện cho toàn bộ phương diện đạo đức thì rõ ràng là một quy nạp quá lệch, tỏ ra cũ kỹ, lại rất dễ phát sinh hiểu lầm và bị lạm dụng; toàn bộ phương diện tri thức và kỹ năng mà người ta cần tiếp nhận trong sự học, đem gói vào chữ “văn” thì quả là sơ giản hóa đến mức khó chấp nhận.

Trong cuộc sống thường ngày, ngoài ý nghĩa lễ độ thông thường, “lễ” thường ám ảnh người ta ở một vài hàm nghĩa thông tục. Đối với phía người học, “lễ” dễ gợi tới sự khuất phục, – đòi hỏi học trò phải vâng phục, – điều mà càng học trò lớp trên càng khó có thể sẵn sàng thể hiện, do tư cách “người lớn” đang đậm dần lên ở các cô gái, chàng trai, họ không thể “phục” nếu người thầy không thật giỏi và không thật có tư cách. Đối với phụ huynh, “lễ” nổi bật nhất ở ý nghĩa cống nạp, – nó có cái gì đó nặng nề hơn so với sự trả công thông thường.

Tôi biết là có bạn sẽ yêu cầu phải nêu những hàm nghĩa của “lễ” từ gốc, từ các kinh điển Nho giáo. Song đấy là lĩnh vực của giới nghiên cứu học thuật; người ngoài đời thường không đủ hiểu biết để tiếp cận như thế; họ chỉ hiểu và đụng chạm với “lễ” ở ý nghĩa thông tục mà thôi.

Cho nên, việc sử dụng lại khẩu hiệu “tiên học lễ hậu học văn” từ hơn chục năm nay, theo tôi, chỉ nên được xem là giải pháp tình thế. Đã đến lúc nên chấm dứt tình thế tạm thời này. Nếu cần khẩu hiệu, hãy gắng tìm từ những nguồn thuần Việt”; và nếu không tìm được từ nguồn “thuần Việt”, thì nên tham khảo những nguồn có quy mô thế giới, chẳng hạn từ nguồn của tổ chức UNESCO.

Trong bối cảnh thế giới hiện tại, ta cũng nên lưu ý đến những hiện tượng như các viện mang tên Khổng Tử được Trung Quốc lập ra ở các nước với tính cách những cơ quan truyền bá văn hóa Trung Quốc ở nước ngoài. Cái tên của Khổng Tử và có lẽ cả học thuyết của ngài nữa, như vậy, đang được đóng dấu đậm bản quyền quốc gia Trung Hoa. Ta nên tế nhị với chuyện này. Ta nên tự chứng tỏ rằng: từ thời hiện đại, người Việt Nam chúng ta đã đứng ngoài biên giới của nền văn hóa Trung Hoa rồi, không còn đứng trong đó nữa, như ở thời trung đại. Khẩu hiệu “tiên học lễ hậu học văn” – vốn có xuất xứ từ Khổng Tử – càng nên được chúng ta sớm chấm dứt sử dụng trong hiện tại, để từ nay chỉ nên được ghi nhận như một trong những thứ ta đã từng vay mượn thời quá khứ xa xưa.

Chú thích
[1] Trần Đình Hượu (1995): Đến hiện đại từ truyền thống, Hà Nội: Nxb. Văn hóa, in lần 2 có bổ sung, 1996, tr. 7 – 9; Trần Đình Hượu (2001): Các bài giảng về tư tưởng phương Đông /Lại Nguyên Ân sưu tầm biên soạn/ Hà Nội: Nxb. Đại học quốc gia Hà Nội, 2001, tr. 171-172.

20.7.2012
LNA
( viet-studies )

BẾN SƯƠNG MÙ - HẠC THÀNH HOA

Bến sương mù
Chỉ có sương và sương thế thôi
Bến xa như lẫn với mây trời
Phà đưa ta trở về bên ấy
Một bóng trăng chìm giữa nước trôi.

Đợi chờ
Có chiếc thuyền nằm im trong tủ kiếng
Buồm giương cao chờ đợi buổi ra khơi
Giấc mơ đó xa vời như cổ tích
Nên đêm ngày thương nhớ biển không nguôi.

BÀ LÃO BÁN RAU...



Câu chuyện về bà lão bán rau đang lan truyền trên cộng đồng mạng
“- Ăn rau không chú ơi?

Một giọng khàn khàn, run run làm gã giật mình. Trước mắt gã, một bà cụ già yếu, lưng còng cố ngước lên nhìn gã, bên cạnh là mẹt rau chỉ có vài mớ rau muống xấu mà có lẽ có cho cũng không ai thèm lấy.

- Ăn hộ tôi mớ rau...!

Giọng bà cụ vẫn khẩn khoản. Bà cụ nhìn gã ánh mắt gần như van lơn. Gã cụp mắt, rồi liếc xuống nhìn lại bộ đồ công sở đang khoác trên người, vừa mới buổi sáng sớm. Bần thần một lát rồi gã chợt quay đi, đáp nhanh: Dạ cháu không bà ạ! Gã nhấn ga phóng nhanh như kẻ chạy trốn. Gã chợt cảm thấy có lỗi, nhưng rồi cái cảm giác ấy gã quên rất nhanh. "Mình thương người thì ai thương mình" cái suy nghĩ ích kỷ ấy lại nhen lên trong đầu gã.

- Ăn hộ tôi mớ rau cô ơi! Tiếng bà cụ yếu ớt.

- Rau thế này mà bán cho người ăn à? Bà mang về mà cho lợn!

Tiếng chan chát của một cô gái đáp lại lời bà cụ.

Gã ngoái lại, một cô gái cũng tầm tuổi gã. Cau mày đợi cô gái đi khuất, gã đi đến nói với bà:

- Rau này bà bán bao nhiêu?

- Hai nghìn một mớ. Bà cụ mừng rỡ.

Gã rút tờ mười nghìn đưa cho bà cụ.

- Sao chú mua nhiều thế?

- Con mua cho cả bạn con. Bây giờ con phải đi làm, bà cho con gửi đến chiều con về qua con lấy!

Rồi gã cũng nhấn ga lao vút đi như sợ sệt ai nhìn thấy hành động vừa rồi của gã. Nhưng lần này có khác, gã cảm thấy vui vui.

Chiều hôm ấy mưa to, mưa xối xả. Gã đứng trong phòng làm việc ngắm nhìn những hạt mưa lăn qua ô cửa kính và theo đuổi nhưng suy nghĩ mông lung. Gã thích ngắm mưa, gã thích ngắm những tia chớp xé ngang trời, gã thích thả trí tưởng tượng theo những hình thù kỳ quái ấy. Chợt gã nhìn xuống hàng cây đang oằn mình trong gió, gã nghĩ đến những phận người, gã nghĩ đến bà cụ...

- Nghỉ thế đủ rồi đấy!

Giọng người trưởng phòng làm gián đoạn dòng suy tưởng của gã. Gã ngồi xuống, dán mắt vào màn hình máy tính, gã bắt đầu di chuột và quên hẳn bà cụ.

Mấy tuần liền gã không thấy bà cụ, gã cũng không để ý lắm. Gã đang bận với những bản thiết kế chưa hoàn thiện, gã đang cuống cuồng lo công trình của gã chậm tiến độ. Gã quên hẳn bà cụ.

Chiều chủ nhật gã xách xe máy chạy loanh quanh, gã vẫn thường làm như vậy và có lẽ gã cũng thích thế.

Gã ghé qua quán trà đá ven đường, nơi có mấy bà rỗi việc đang buôn chuyện.

Chưa kịp châm điếu thuốc, gã chợt giật mình bởi giọng oang oang của một bà béo:

- Bà bán rau chết rồi.

- Bà cụ hay đi qua đây hả chị? Chị bán nước khẽ hỏi.

- Tội nghiệp bà cụ! một giọng người đàn bà khác.

- Cách đây mấy tuần bà cụ giở chứng cứ ngồi dưới mưa bên mấy mớ rau. Có người thấy thương hỏi mua giúp nhưng nhất quyết không bán, rồi nghe đâu bà cụ bị cảm lạnh.

Nghe đến đây mắt gã chợt nhòa đi, điếu thuốc chợt rơi khỏi môi.

Bên tai gã vẫn ù ù giọng người đàn bà béo kia...

Gã không ngờ.........!”

(Nguồn: ST)

BÀI TÌNH SI CUỐI - HOÀNG LỘC

sẽ tới một ngày em biết khóc
biết trong đời vắng gã làm thơ
dẫu nơi xa còn chút tro cốt
cũng kiếm đường về lại với quê

là chút hình hài (không thể mất ?)
công cha nghĩa mẹ thuở sinh thành
là chút ân tình (không thể cất)
xin rơi tàn trước ngõ nhà em

em sẽ đi qua và đi lại
ngõ nhà em, bụi đầy gót chân
sẽ có một ngày em phủi bụi
nhìn hạt tro bám ở quần hồng

20-7-12

CHIỀU - PHAN LỆ DUNG

Trời trở lạnh.
Sao chiều còn vương nắng.
Phía đồi kia hàng thông xòe lá
Như những cánh tay mùa thu khoác áo bạc
Nắng ngửi mùi khói quen.
Người thợ rừng lui hui bếp lửa.
Lẩn thẩn.Tôi đi.Cỏ phủ vàng mộ chí.
Đất ngẩn ngơ.
Trời ngẩn ngơ.
Chiều tan vào lá.

Ngoài kia gió chíu chít mang hơi lạnh về phố
Trời sắp vào đông.
Tôi ngỗn ngang lòng.

Mấy con chim nhạn lớ ngớ lượn vòng trên không .
Dương như
chúng có điều chi
vương vấn.

GIỚI THIỆU TẬP TẠP VĂN CAO THOẠI CHÂU - NGUYỄN LIÊN CHÂU



Khi tôi đang còn tập tễnh bước vào nghiệp sáng tác thì tên tuổi Cao Thoại Châu đã được khẳng định vị trí trong làng văn, và là một trong số rất ít những tác giả mà tôi yêu thích lúc bấy giờ. Còn nhớ, tôi đã rất tâm đắc kiểu đặt “tít” cho những bài thơ của anh thời ấy, dứt bỏ kiểu ước lệ chung chung để trực diện với chính cảm xúc, kiểu như “Để nhớ lúc Trâm xa”, thơ hơn và nhiều âm ba hơn so với những “Biệt ly” hay “Chia xa” của thời kỳ trước đó. Nói một cách khác, anh là một trong những người Thầy - trước khi là bạn - của tôi trong chuyện sáng tác, dù không trực tiếp dạy tôi một phút giây nào.
Giới văn nghệ, đa số, cho anh là người khô khan, khó gần. Thật ra, chơi thân với anh mới hiểu vì sao có sự ngộ nhận ấy. Anh luôn cầu toàn nhưng bình dị, cả trong đời sống và trang viết. Anh rất ngại đám đông và ghét sự “điếu đóm”, ngại và ghét đến độ có biệt danh “Cao Thoại Châu - người không quen vui”. Không, anh “quen” vui lắm đấy, “quen” đến độ hồn nhiên nhưng vì anh luôn điềm đạm, và cả bao dung, nên rất khó nhận ra cái sự “quen” ấy ở anh. Tôi ngưỡng mộ chất điềm đạm và bao dung của anh, nhất là ở những trang viết.
Cái sự “Tạp” nhiễu nhương khi được anh đưa vào “Văn” luôn trở nên nhẹ nhàng hơn, dễ cảm thông hơn. Tạp văn của anh không “đao to búa lớn” và nhất là không bao giờ “bi thảm hóa” vấn đề. Anh điềm đạm dẫn người đọc đi từ những chi tiết nhỏ nhặt tưởng chừng như vặt vãnh, nhưng kỳ thực, đó chính là những “lỗ nhỏ làm đắm thuyền”. Sự trân trọng chi tiết và tiết giảm tối đa lý luận đã làm nên cái “duyên” và cái “trọng” cho “Tạp văn Cao Thoại Châu”. Anh bao dung với đủ mọi thứ “trên trời dưới đất” nhưng không bao giờ thỏa hiệp mà luôn điềm đạm từng chút một để “gỡ” và để “thoát”.
Đúng là đọc Tạp văn của một nhà thơ thấy rất khác so với đọc Tạp văn của một nhà văn hay một nhà báo. Lại càng khác khi đó là “Tạp văn Cao Thoại Châu”. Cần phải có tâm thế “bao dung và điềm đạm” giống tác giả mới có thể “mỉm những nụ ưu tư” trước những đa đoan và nhiễu nhương thế sự, phận người.
Ngay cả khi anh viết Tiểu phẩm Châm biếm (dưới nhiều bút danh, nhưng nhiều nhất là Hư Trúc), cái “duyên” và cái “trọng” cũng không khác là mấy khi anh viết Tạp văn. Chỉ tiếc là không biết đến bao giờ anh mới tập hợp và cho xuất bản những tuyển tập tiểu phẩm này. Hy vọng...
Thân, nhưng hai anh em rất ít khi được gặp nhau, anh đã thôi không làm báo ở Sài Gòn nữa. Biết là dạo này sức khỏe của anh rất kém, nhưng vẫn khá yên tâm khi mỗi tối vào blog của anh, vẫn đều đặn được đọc những bài viết mới toanh của “người không quen vui”. Bút lực của anh “cho hít khói” một số người nhỏ tuổi hơn anh rất nhiều mà lại “đại lãn” như tôi. Cố mà học cái chất “bao dung và điềm đạm” của anh, thời may ra...
Còn nhớ, ngày anh giao nhiệm vụ chăm sóc bản thảo tập thơ “Ngựa hồng”, mở ra, thấy mình được anh đề tặng một bài trong đó, mừng và cảm động quá chừng. Anh vốn là người không dễ bộc lộ tình cảm cũng như biểu hiện cảm xúc ra mặt, vậy mà lại ưu ái tặng cho thằng em một trong những bài thơ hay nhất của mình. Bài thơ có 2 câu đề từ luôn đeo lấy tôi như một ám ảnh: “Cũng đành bứt sợi dây câu / Ra đi để lại một châu thổ buồn...”. Anh rất tâm lý, hiểu người và nặng tình.
Những ngày này, ngồi chăm sóc bản thảo tập Tạp văn “Vách đá cheo leo” của anh, lại vẫn rưng rưng với 2 câu đề từ ấy.
Và bất ngờ thú vị khi phát hiện, trời đất, bài nào cũng được anh khởi viết bằng duy nhất phụ âm đầu “T”, phụ âm đầu của “tình, tiền, tù, tội, thương, thù...” đầy “bi, ai, hỉ, nộ, ái, ố...”. Ngoài sự kỹ lưỡng, làm việc gì anh cũng cố tình lưu lại những dấu ấn rất riêng. Thiết nghĩ, đó cũng là một cách “chơi” rất Cao Thoại Châu!
Cũng thú vị nhưng đắc địa và cần thiết, khi tập tạp văn này của anh trình làng dưới một hình thức mà không phải người viết nào cũng làm được: Dưới mỗi tạp văn là một bài thơ! Có thể anh đã “khiêm nhường” xem những bài thơ này là phần “phụ lục”. Nhưng chính những “phụ lục” này đã mở rộng biên độ vấn đề, hướng vấn đề vào một chiều không gian khác, nhẹ nhàng hơn và thấm thía hơn. Viết tạp văn kiểu này, chỉ mới có mỗi mình anh, Cao Thoại Châu!
Sài Gòn, 6/3/2012
N.L.C

CHIA BUỒN

PHÂN ƯU
Nhận được tin buồn:
Nhà văn, nhà báo LÊ XUÂN TIẾN
(Bút danh Lê Phiên Vươn, Bích Tuyền…)

do bạo bệnh, dù được các bác sĩ Bệnh viện Thống Nhất tận tình chữa trị, nhưng vẫn không qua khỏi,đã trút hơn thở cuối cùng vào lúc 01 giờ 18 phút ngày 18-7-2012, nhằm ngày 30-5 năm Nhâm Thìn, hưởng thọ 62 tuổi.
Chúng tôi xin chia buồn đến Bà Lê Xuân Tiến, cùng tang quyến và nguyện cầu hương linh bạn hiền vãng sinh miền cực lạc.

Võ Chân Cửu, Hồ Ngạc Ngữ, Nguyễn Lương Vỵ , Đinh Văn Liên, Phạm Chu Sa, Nguyễn Đăng Trình, Ngô Quang Hiển,Cao Huy Khanh, Nguyễn Miên Thảo và bằng hữu

MÁI NHÀ XƯA - ĐỨC PHỔ

Anh đã về dưới mái nhà xưa
Mẹ Cha không còn nữa
Nhà trống,nương vườn xơ xác
Chỉ còn con vện vẫy đuôi !

Khi cắm nén hương lên bát hương đã cũ
Kỷ niệm theo về
Cùng hương khói mang mang
Tự nhiên anh khóc…

Anh đã về dưới mái nhà xưa
Mái tróc,tường nghiêng,cột kèo đùn mối
Chiếc giường Mẹ nằm giờ trơ trong góc
Bộ trường kỷ của Cha không còn
Câu liểng, bức hoành vắng bóng…
Tâm hồn anh bỗng tha ma…

Anh đã về dưới mái nhà xưa
Người chị mắt loà ,nhìn em không rõ mặt
Giọng khàn thăm hỏi nhỏ to
Rưng rưng sương ướt vai rồi
Tự nhiên anh khóc…

Đang giữa mùa hè mà nhà xưa lạnh ngắt
Tiếng hàng xóm không đủ khêu đèn
Đêm ma trơi khắc khoải
Khiến mảnh vườn rộng thêm
Anh bơ vơ chiếc lá
Rụng vô hồn, trời khuya!

Anh đã về dưới mái nhà xưa
Em đến thăm rót nước tự mời
Anh vụng về không biết nói chi
Dẫu lòng muốn hỏi
Mai này còn nhớ nhau không?

ĐỨC PHỔ
28.6.12

NHÀ THƠ NGUYỄN KHOA ĐIỀM ĐỀ NGHỊ XEM LẠI CÔNG LAO CỦA NHÀ NGUYỄN

Ra mắt “Danh tướng yêu nước Tôn Thất Thuyết”:
Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đề nghị xem lại công lao của Nhà Nguyễn

Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đề nghị các nhà viết sử phải chỉnh sửa lại câu “vua quan nhà Nguyễn đầu hàng bán nước” ở rất nhiều ấn phẩm.
Nhân ngày kinh đô Huế thất thủ - ngày 23-5 âm lịch, ngày thương binh liệt sĩ 27-7, kỷ niệm 100 năm ngày mất của Tôn Thất Thuyết, Hội Nhà báo và Hội Khoa học Lịch sử Thừa Thiên - Huế tổ chức ra mắt tác phẩm và tọa đàm về Danh tướng yêu nước Tôn Thất Thuyết (NXB Lao động, ấn hành quý 3-2012).

Từ sau sự kiện quân Pháp tấn công vào Đà Năng (1858) và đánh chiếm ba tỉnh miền đông Nam Bộ, nội các triều đình nhà Nguyễn hình thành hai phái chủ chiến và chủ hoà.

Phái chủ chiến do Tôn Thất Thuyết đứng đầu. Họ chủ động xây dựng kinh thành kháng chiến ở Tân Sở - Quảng Trị, dùng nhiều cách để loại bỏ những đại thần, hoàng thân, nhà vua chủ hoà, thân Pháp, dựng lên ngôi những ông vua có tư tưởng yêu nước - như vua Hàm Nghi (lên ngôi 2-8-1884) để sau đó ít lâu trở thành ngọn cờ kháng chiến chống Pháp.

Ngày 2-7-1885, tướng Pháp De Courcy yêu cầu triều đình Huế tổ chức nghi lễ chuyển giao theo hiệp ước Pa - tơ - nôt, nhân cơ hội này sẽ bắt Tôn Thất Thuyết. Biết trước âm mưu của De Courcy, Tôn Thất Thuyết tìm mọi lý do để cự tuyệt.

De Courcy yêu cầu triều đình Huế trong vòng ba ngày phải nộp đủ tiền bồi thường chiến phí; phải cho sĩ quan tuỳ tùng và lính Pháp được mang vũ khí vào cửa Ngọ Môn.

Thái độ hách dịch và những yêu sách vô lý của De Courcy đã đẩy mâu thuẩn lên đến tột đỉnh. Nhằm lật lại thế cờ, đêm 22, rạng sáng ngày 23-5 Ất Dậu (5-7-1885) Tôn Thất Thuyết tổ chức tập kích các đồn binh của Pháp ở cả bờ bắc và bờ nam sông Hương.

Cuộc tập kích bất thành, kinh đô thất thủ, phe chủ chiến phò vua Hàm Nghi ra Tân Sở. Ngày 13-7-1885, Tôn Thất Thuyết thay mặt vua Hàm Nghi ban chiếu Cần Vương, dấy lên phong trào kháng chiến chống Pháp rộng khắp trên toàn quốc.

Biến cố này và phong trào Cần Vương, vai trò cá nhân của Tôn Thất Thuyết rất lớn. Để kinh đô thất thủ và sau này phong trào Cần Vương bị dập tắt, lịch sử đã và đang tiếp tục phán xét Tôn Thất Thuyết. Nhưng từ các sự kiện này lịch sử cũng đã vinh danh Tôn Thất Thuyết, một người tiêu biểu cho chủ nghĩa yêu nước và anh hùng thời bấy giờ.

Danh tướng yêu nước Tôn Thất Thuyết do GS Đinh Xuân Lâm và TS Nguyễn Văn Khoan tổ chức bản thảo, tập hợp 25 bài viết đã công bố của nhiều tác giả. Riêng tại Huế có 12 bài của 8 tác giả. Do tập hợp bài viết của nhiều tác giả và tổ chức bản thảo tại Hà Nội nên trong tác phẩm còn có khá nhiều hạt sạn.

Cùng một tác phẩm nhưng về nội dung có những điểm khác biệt, mâu thuẫn ở một số bài viết. Lỗi biên tập và mo rát khá nhiều như: Sai sót, lẫn lộn về chức và tước của các nhân vật lịch sử; sai chức danh, địa chỉ của một số tác giả. Làng Vân Thê, quê hương của Tôn Thất Thuyết, được các nhà biên soạn viết thành làng Văn Thê.v.v…

Buổi ra mắt tác phẩm mang không khí của một hội thảo nhân vật lịch sử. TS Nguyễn Văn Đăng cho rằng vai trò của Tôn Thất Thuyết rất lớn, là nhân vật số một của phái chủ chiến nhưng các công trình nghiên cứu về ông còn rất khiêm tốn.

Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm cho đây là một vấn đề lớn của sử học, đồng thời đang là một vấn đề thời sự. Ông đề nghị các nhà viết sử phải chỉnh sửa lại câu “vua quan nhà Nguyễn đầu hàng bán nước” ở rất nhiều ấn phẩm. Viết như thế không ổn khi có những ông vua như Hàm Nghi, có những quan đại thần như Tôn Thất Thuyết dựng cờ kháng chiến chống Pháp .

Nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân đề nghị Hội KHLS Việt Nam cần tổ chức hội thảo về phong trào Cần Vương với sự tham gia của bốn địa phương từ Huế ra tới Hà Tĩnh - những nơi có kinh thành, bản doanh của vua Hàm Nghi và nghĩa quân Cần Vương.

Tương tự, nhà nghiên cứu Lê Quang Thái đề nghị công trình nghiên cứu về Tôn Thất Thuyết cần có những bài viết đánh giá đầy đủ, sâu sắc về phong trào Cần Vương và Văn thân cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20. Vấn đề bảo tồn, phát huy giá trị ngôi nhà của Tôn Thất Thuyết ở phường Kim Long cũng được đặt ra, dù nó đã thay đổi chủ sở hữu…

Một số tác giả từng lên án Nguyễn Văn Tường thỏa hiệp với người Pháp, bây giờ, ngay trong tác phẩm này, cũng đã khẳng định: Gần đây, dưới ánh sáng của tư liệu mới, kết hợp với cách nhìn đổi mới của tư duy sử học, Nguyễn Văn Tường được xác nhận là danh nhân yêu nước…”.

Thanh Tùng

(TIÊN PHONG ONLINE)



CHA GIÀ - LUÂN HOÁN

1.
cuối tuần ba thuê đấm lưng
nắng ngoài sân gọi, dòm chừng, đếm gian
ba nằm ấp sấp mơ màng
máu nghe ấm áp hai bàn tay con
2.
chiết trà ra chén gan gà
tay ba kính cẩn hơn là nâng hoa
khói bay trắng tóc hay là…
không đâu, con chỉ quáng gà đấy thôi
3.
ba đeo gọng kính đồi mồi
trễ dài xuống sống mũi ngồi lim dim
con nghe tiếng đập trái tim
của ai văng vẳng hát lên trong lòng
4.
ba cầm thi phẩm của con
long lanh mắt lật, ngó, không nói gì
khi con quay gót chân đi
thoáng nghe tiếng gọi thầm thì : con tôi !
5.
con đi học làm sĩ quan
mỗi tuần ba gởi vài trang chữ đầy
hóa ra con vẫn như ngày
lên năm lên sáu thơ ngây thuở nào
6.
dìu nhau về tới hiên nhà
nạng con ngơ ngác, gậy ba bàng hoàng
không gian cùng với thời gian
bỗng dưng khựng dưới ba bàn chân khua
7.
ba nằm duỗi thẳng chân tay
tám mươi bốn tuổi, ngủ say một lần
ba còn mộng mị gì không ?
áo quan đóng lại là xong một đời

• Luân Hoán

CÂY CỎ VÔ ƯU ( BÀI 3) - VÕ CHÂN CỬU

Nguyễn Mộng Giác “Đông tàng” Ảnh : Nguyễn Mộng Giác (hàng ngồi, thứ 2 từ trái qua) và các Bạn văn Quy Nhơn 1973.
(Bộ sưu tập ảnh từ “nguyenmonggiac.info")
Những triền núi đã bạt xuống để mở rộng phố phường. Còn không, những “bóng trăng khuya nơi đầu non hái củi” ? Lần này về, tôi cũng chỉ ở lại với Quy Nhơn được một đêm, nhưng lòng như vẫn băn khoăn, có lẽ vì tìm không ra những bóng hình xưa cũ.
Năm 1995, nhà văn Nguyễn Mộng Giác lần đầu tiên về lại thành phố quê hương sau 14 năm xa cách. Người đầu tiên mà ông hỏi tin tức, lại là ông Tám Khùng, một hình bóng đặc biệt mà mọi người dân Quy Nhơn trước đó đều biết. Nhưng bây giờ có lẽ ông đã “đi xa”, lớp con cháu mới lớn không còn ai nhớ.
Hình bóng cũ
Ông Tám Khùng lưu giữ trong trí nhớ (của người điên) mọi dấu ấn vui buồn của tất cả mọi gia đình nơi đây. Nhà nào có giỗ chạp, tang chế, cưới hỏi ông cũng đều mang đến những bó hoa hợp cảnh. Ngày tôi cưới vợ, năm 1974 cũng được ông đem hoa đến chúc mừng. Sau khi được ăn no, nhận quà (thức ăn dự trữ), ra đường, nếu bị lũ con nít nghịch ngợm trêu chọc, ông lại tiếp tục lấy đá, gạch đập mạnh vào ngực mình bịch bịch và kêu tên cha mẹ mình. NMG ngạc nhiên rằng nhiều lần thấy viên gạch ông đập vào ngực bị vỡ đôi. Có người thương đưa ông đến bệnh viện chụp hình kiểm tra, nhưng lồng ngực vẫn không hề suy xuyển ! Có phải vì ông tự nguyện gánh chịu mọi nỗi đau của nhân thế, nên trời ban cho sức khỏe ?
Trong một tùy bút lấy tên ông Tám Khùng làm tựa đề, viết năm 2001 ở California (cho trang Web cựu học sinh Nữ Trung học Quy Nhơn), NMG vẫn nhắc lại ý kiến ngày xưa: Ông Tám Khùng là công dân số 1 của thành phố Quy Nhơn. Ra trường, đi dạy từ năm 1963, Nguyễn Mộng Giác từng đào tạo nhiều thế hệ học sinh thành tài, rồi trở thành một viên chức (Giám đốc Nha học chánh) được mọi người kính trọng. Nhưng nhận định về ông Tám Khùng thật xác đáng, vì đó là ý kiến của một nhà văn.


Trơ trọi
Chính thức bước vào “làng văn trận bút” khi tuổi đời đã chín (30 tuổi). NMG liên tiếp trình làng với nhiều thể loại văn xuôi (khảo luận, truyện ngắn, tiểu thuyết, phóng bút). Ngay từ những trang đầu tiên, ông đã bày tỏ cái nhìn khá chững chạc của mình:
“Bây giờ nhà văn vẫn thiết yếu biểu lộ tương quan giữa con người và thực tại, vẫn liên đới trách nhiệm về thực tại. Nhưng nhìn thực tại và tha nhân, xã hội không phải với ý niệm không tưởng, duy lý, mà phải nhìn một thứ thực tại đúng nghĩa của nó. Thực tại Việt Nam hôm nay trong niềm vui còn lại giữa những nỗi đau đớn tủi nhục và chinh chiến, thực tại văn chương trong hoàn cảnh khó khăn của một thứ phương tiện truyền thông.
Nghĩa là phải hiểu chữ Viết trơ trọi, không đậm nét và không tô hoa.
(NMG: Thế đứng bấp bênh của nhà văn-1970)

Hình như NMG giữ mãi”tôn chỉ” này cho đến cuối đời. Nhiều nhà văn cũng theo khuynh hướng đúng đắn đó. Nhưng một đặc điểm mà người đọc nhận ra khá rõ trong văn NMG: ông không bao giờ lớn tiếng hay hồ đồ-dù là trong những ngày khốn khổ nhất ! Sau 1975, hầu hết giới trí thức Miền Nam sa vào cảnh “Ông giáo sư thất nghiệp, Suốt ngày đi ngoài đường, dáo dát tìm trong vô vọng, Một chiếc bóp hay đồng tiền đánh rơi của ai đó…”(Thơ Nguyễn Miên Thảo). Cuối 1973, NMG chuyển vào Sài Gòn làm chuyên viên của Viện nghiên cứu thuộc Bộ giáo dục, năm 1974 ông nhận giải thưởng của Trung tâm Văn bút Việt Nam (thuộc hệ thống Pen Club quốc tế). Lý lịch đó khó mà được “lưu dung”. Dù muốn hay khôn muốn, ông cũng phải chuyển mình sang “thành phần” lao động tay chân. Một người bạn của chúng tôi, anh Nguyễn Thành Hải, đứng đầu Nhà xuất bản Nhị Khê, và là giáo sư Trường Trung học La San Taberd cũng phải “tự thôi việc”. Anh Hải có nhà ở quận 10 nên kiếm được một chân lao động trong một Hợp tác xã bột mì mà các chủ người Hoa lập ra. Anh liền kéo NMG vào cùng làm. Giữa những ngày “lao động (chân tay) là vinh quang ấy, NMG đã trầm tĩnh nhìn dòng lịch sử, gửi gắm lên trang viết tâm trạng của mình. Khoảng đầu năm 1981, bộ trường thiên tiểu thuyết 4 tập “Sông Côn mùa lũ” được viết xong. Anh đến một NXB trình bày “đề cương” và mong muốn tác phẩm được xuất bản. Nhưng NXB chỉ “ghi nhận”- một cách nói khéo của những người có thẩm quyền xuất bản lúc này.

Tôi cùng một số bạn văn (chữ dùng của NMG) khởi nghiệp từ Bình Định còn sót lại (rất ít) ở VN đến hôm nay trong câu chuyện vãn vẫn thường hỏi nhau rằng điều gì đã tạo nên tính cách rất Bình Định (theo cả 2 nghĩa rộng và hẹp) này ? Cuối cùng, ai cũng tạm bằng lòng với lý giải” của một bậc tiền bối, cũng người Bình Định !

Mở đầu bài viết “Người Bình Định”, nhà văn Võ Phiến đã viết :

“Nguyễn Mộng Giác với tôi cùng một quê, nhưng tôi lưu lạc đã lâu thỉnh thoảng gặp nhau tôi có nhiều điều để hỏi thăm anh: tình hình an ninh ở làng này quận nọ, cảnh sinh hoạt độ này so với độ trước, những chuyện buồn vui đã xảy đến cho ông nọ bà kia v.v... Cứ thế chúng tôi lần lần cùng nhau đi vào những nghĩ ngợi lan man về chỗ quê hương.
Xưa kia, tổ phụ chúng tôi đã đến lập nghiệp tại Bình Định trong những điều kiện không biết khác biệt ra làm sao mà tự dưng tách rời hẳn đồng bào xứ Quảng về nhiều phương diện như thế…”
…Thế rồi đến cái khác nhau trong tâm hồn. Nói về đất cách mạng ngoài Trung, người ta thường nhắc đến hai vùng: Nghệ Tĩnh và Nam Ngãi. Sát bên cạnh bà con Nam Ngãi lúc nào cũng sẵn sàng phản kháng, đứng lên, vùng dậy v.v..., người Bình Định tính tình bỗng dưng "thảng hậu" hẳn đi. Mặt khác, người Quảng thiên về lý trí, có tài biện luận, "hay cãi": Phan Khôi, Phan Thanh, Phan Chu Trinh v.v...; người Bình Định dường như thiên về tình cảm, tưởng tượng nhiều hơn, trong văn học có nhiều thơ hơn là văn.”
Sau khi phân tích những đặc điểm khác biệt do địa lý và điều kiện lịch sử (Từ sau triều đại Tây Sơn, gần như người Bình Định gần như đều bị các triều đình “thành kiến”), nhà văn Võ Phiến nói rõ hơn:
“Gặp Quách Tấn, rồi gặp những con người hớn hở tưng bừng, ra rít yêu đương, hô hào om sòm như Xuân Diệu, không khỏi chắt lưỡi ao ước: "Sao mà họ sung sướng vậy?"
Thế rồi, non nửa thế kỷ sau Quách Tấn, cũng vẫn không gặp được những người Bình Định sung sướng.
"Theo mây đi một buổi
Trời đất nhẹ phiêu phiêu
Va đầu tưởng đụng núi
Chỉ đụng bóng sương chiều
Một mặt trời lầm lủi
Trên trần gian tiêu điều."
(Đường vô núi)
Võ Chân Cửu, người thi sĩ đồng hương với ông Quách, viết ra những lời thơ ấy cũng trong tuổi đôi mươi. Và cũng như ông Quách giữa thời thanh xuân, Võ Chân Cửu không mấy khi đề cập tới chuyện yêu đương hạnh phúc trong suốt hai thi phẩm đã xuất bản, và dường như cũng không hề hứa hẹn một đề tài như thế trong các thi phẩm tương lai. Tiếng chuông vọng trong mây, chùa cổ bên sông, sương trắng trước thềm, đời như ảo mộng, sinh tử hai bên còn lộn lạo v.v... những cái đó dìm người thanh niên này vào những suy tư triền miên.
Ở Nguyễn Mộng Giác cũng vậy. Ngay từ những thiên truyện ngắn đầu tiên, anh đã có cái phong độ chín chắn, mực thước, đã có cái kín đáo, âm thầm, anh đã lim lỉm vào những suy nghĩ lo lắng.
Tuổi trẻ nào mà không có ái tình? ¬Tiếng chim vườn cũ cũng có tình đấy, nhưng tình ở đây chỉ là cái cớ cho bao nhiêu vất vả ưu tư. Bão rớt cũng có tình nữa, nhưng cũng là cái cớ cho bao nhiêu ẩn ức éo le...
Từ vấn đề nọ đến vấn đề kia, Nguyễn Mộng Giác khổ tâm tìm hiểu, nghiên cứu, phân tích, rồi dựng truyện: không có bao giờ anh được thảnh thơi ung dung viết một câu truyện tùy hứng. Anh không có cái sung sướng đó...”
(“Tiếng chim vườn cũ” và “Bão rớt” là tên các tác phẩm xuất bản trước 1975 của NMG).

Rất mong người đọc thông cảm khi tôi lại đem các đoạn trích dẫn có nhắc đến mình.


Tiếc thương
Lần NMG và nhiều anh em làm văn nghệ cũ của Sài Gòn gặp nhau đông đủ là tháng 3-1981, buổi tưởng niệm người bạn Vũ Hữu Định do tôi và Nguyễn Tôn Nhan cùng Nguyễn Mộng Giác cùng gọi nhau làm tại nhà một người bạn mê thơ Vũ Hữu Định ở đường Nguyễn Thiệp ở trung tâm quận 1.
Giới sáng tác trước 1975 có đặc điểm sẵn sàng cưu mang bạn văn nghệ, dù chỉ mới nghe tên trên mặt báo. Khoảng 1973-1974, nhà của “viên chức” NMG ở Quy Nhơn chính là nơi “lưu trú” an toàn của Hoàng Ngọc Tuấn lúc Tuấn đang đào ngũ. Vũ Hữu Định đi giang hồ khắp xứ nhưng cứ vài tháng vẫn tạt về Quy Nhơn để được NMG xách xe Jeep nâu chở cùng các nhà văn trốn quân dịch khác đi ngao du. Bình thường, ít khi chúng tôi bình luận vể văn chương khi ngồi với nhau.Bữa tưởng niệm VHĐ, mọi người đều ngậm ngùi khi nghe nhà văn tâm hồn “ít khi sung sướng vì có máu phân tích” là NMG nhắc đến những câu thơ “tuyên ngôn” của VHĐ qua bài thơ “tiên tri” (Bài thơ năm 40) mà tôi đã đánh máy đưa anh trước đó :

… “nay ta mừng xuân ta bốn mươi tuổi
Bằng bài thơ kiểm điểm đời mình
Ta hứa ta sẽ sống thật tình

Và ta chỉ làm thơ
Khi ta xúc động

Ta đang nhớ thuở sông dài núi rộng
Đường thênh thang của một gã giang hồ
Ta đang thèm đi để học làm thơ
Chờ ta đến xin nhớ phần rượu tặng

Anh tiếc thương là VHĐ vội mất khi đời thơ chưa trọn vẹn…
Chỉ không lâu sau bữa ấy, NMG khi làm “thuyền nhân” lần thứ 2, và lần này đã “thành công” để có điều kiện tiếp nối “những chữ Viết trơ trọi, không đậm nét và không tô hoa”.
*
Nói thêm
Nhiều người đọc vốn là học trò cũ nên rất mê văn của “thầy Giác”. Khi “Sông Côn mùa lũ” được trong nước xuất bản (1998), họ đều đọc rất kỹ từng trang. Có người nói : Thầy Giác là giáo sư văn chương, nguyên là sinh viên tốt nghiệp thủ khoa của Viện Đại học Huế năm 1963, không lẽ thầy lại viết sai chính tả ? Trong SCML, kể cả khi tái bản, câu thành ngữ nói về sự luân chuyển của thời gian, được in là “xuân sanh, hạ trưởng, thu thâu, đông tàn”. Đúng ra phải là “đông tàng”.
Cũng là người Bình Định nên người đọc này cũng rất “thảng hậu”: Mong các NXB lần sau khi sửa bản in lưu ý giùm !

CAO HUY KHANH - VN HỒ SƠ HẬU CHIẾN 1975 - 2012 (Kỳ 117)

NHỮNG SỐ PHẬN KỲ LẠ
Tưởng niệm
955 - Nguyễn Hữu Có
CẢI TẠO 12 NĂM THÀNH “NHÂN SĨ”
Cựu trung tướng VNCH sinh 1925 tại VN – Mất tháng 7.2012 ở TPHCM (88 tuổi).
Thuộc nhóm tướng Dương Văn Minh đảo chính Ngô Đình Diệm, đến giữa thập niên 1960 từng làm Bộ trưởng Quốc phòng, Phó thủ tướng VNCH.
Năm 1967 bị phe “tướng trẻ” Nguyễn Văn Thiệu – Nguyễn Cao Kỳ lừa cho đi công cán Đài Loan, Hàn Quốc rồi… cách chức cấm trở về khiến phải qua sống lưu vong ở Hong Kong.
Năm 1970 Tổng thống NV Thiệu cho phép về song buộc giải ngũ ra ngoài làm kinh doanh, ngân hàng dân sự.
Khi tướng Dương văn Minh lên cầm quyền tổng thống vài ngày trước 30.4.1975 riêng mình đã được gọi lại chuẩn bị giao nhiệm vụ nhưng chưa kịp động tay động chân gì thì… giải phóng!
Bản thân chập chờn nửa đi nửa ở, cuối cùng chấp nhận ở lại không theo Mỹ đi di tản dù cố vấn Mỹ sẵn sàng giúp vì nghĩ mình đã giải ngũ rồi không tội vạ gì với cách mạng. Sau đó muốn vượt biên thì sợ nguy hiểm cho gia đình có đến 12 đứa con nên thôi. Rốt cuộc… đi cải tạo 12 năm tận ngoài Bắc!
Trong thời gian ở trại đã được “Ơn trên kêu gọi” (vợ con mắc bệnh nặng được cầu nguyện mà khỏi bệnh) tự nguyện bỏ đạo Phật cải đạo Tin Lành năm 1983.
Năm 1987 được thả về “loanh quanh trong nhà trồng rau, nuôi gà”.
Đến cuối những năm 1990 được gợi ý tham gia hoạt động xã hội, qua năm 2004 chấp nhận lời mời làm thành viên Ủy ban Mặt trận Tổ quốc VN với tư cách “nhân sĩ” (nhân vật của chế độ cũ chấp nhận ở lại sống chung hợp tác với Cộng sản) cổ xúy cho tinh thần hòa giải hòa hợp dân tộc. Được cho đi Mỹ thăm viếng người thân, bạn bè thoải mái.
Hàng tuần có tham gia phụ việc nấu cháo từ thiện một lần cho bệnh nhân Bệnh viện Nhi đồng 1 TPHCM.

278 - Nguyễn Mộng Giác
VIẾT TRONG THỜI CẤM VIẾT
Nhà văn Việt kiều Mỹ sinh 1940 tại Bình Định - Mất tháng 7.2012 ở Mỹ (73 tuổi).
Nhà văn xuất thân nhà giáo, tốt nghiệp ĐH Sư phạm Việt – Hán Huế 1963, ra trường đi dạy trường Đồng Khánh ((lấy vợ Huế) rồi chuyển về quê nhà Quy Nhơn dạy trường Cường Để. Sau lên làm hiệu trưởng rồi làm luôn Chánh Sở Học chánh
Song song đó còn viết văn, bắt đầu nổi lên cuối thập niên 60 ở miền Nam với phong cách phân tích tâm lý hiện đại sâu sắc, tiềm ẩn tính triết lý, bút pháp cô đọng qua tập truyện ngắn ”Bão rớt”, các truyện dài “Tiếng chim vườn cũ”, “Qua cầu gió bay”, “Đường một chiều”, tập tiểu luận văn học “Nỗi băn khoăn của Kim Duung” (Kim Dung, tác giả truyện chưởng Hong Kong). Được trao Giải thưởng văn học quốc gia của chế độ cũ.
Vì thế năm 1974 xin nghỉ chức Chánh Sở HC chuyển về Bộ Giáo dục ở Sài Gòn làm chuyên viên cao cấp với mục đích muốn có điều kiện thuận lợi theo đuổi lâu dài con đường sáng tác.
Nhưng xảy ra biến cố 30.4. 75 nên bị cho nghỉ việc tuy tham tâm vẫn muốn hoà nhập, đóng góp với chế độ mới. Đành chấp nhận trở thành thợ… làm mì sợi – món ăn làm từ bột mì Liên Xô viện trợ phổ biến thời bao cấp thiếu đói – vừa làm vừa chở đi bỏ mối.
Tuy nhiên vẫn không buông bút, không bỏ cuộc văn chương với niềm tin sâu sắc “ngày mai trời lại sáng”. Nên vẫn tiếp tục viết trong giờ nghỉ trưa và tối về cặm cụi ở nhà khu ngoại ô Sài Gòn trong tình cảnh nhà văn “Ngụy” đuơng nhiên không được viết không được in, thậm chí còn có thể bị bắt vì điều đó!.
Từ đó bắt đầu thai nghén bộ tiểu thuyết trường thiên lịch sử “Sông Côn mùa lũ” viết bút bi trên những cuốn tập vở học trò. Tác phẩm viết về đề tài cuộc khởi nghĩa Tây Sơn diễn ra nơi quê nhà Bình Định xa xưa, khởi thảo 1978 và hoàn thành 1981.
Nhưng đến đó thấy chờ “trời lại sáng” có vẻ… lâu quá mà xin vào làm báo Tin Sáng (báo TPHCM, của nhóm trí thức nhân sĩ chế độ cũ – “tại chỗ” - được chế độ mới cho phép hoạt động nhằm mục đích tập hợp tầng lớp này tham gia ủng hộ Cách mạng) cũng không đuợc nên đành… vượt biên một mình qua Mỹ (sau mới bảo lãnh vợ con qua). Phải trầm trầy trầm trật mấy lần (có lần bị bắt giam mấy tháng) mới đi thoát được năm 1982.
Thế rồi chính trên đất Mỹ, “Sông Côn mùa lũ” 4 tập dày 2.000 trang mới có cơ hội xuất bản năm 1991. Cùng lúc trở lại góp mặt trên văn đàn hải ngọai, tham gia viết lách trên nhiều báo, tạp chí trong đó có thời gian dài quản lý tạp chí Văn Học, cộng tác thường xuyên với tạp chí Hợp Lưu (thời gian đầu khi tạp chí này còn theo xu hướng chống Cộng ôn hòa kêu gọi hoà hợp dân tộc)…
Tiếp tục viết, in thêm tập truyện ngắn “Ngựa nản chân bon”, “Xuôi dòng”; tập tiểu luận “Nghĩ về văn học hải ngoại”…
Cuối cùng rồi cũng đến thời “trời lại sáng” - Đổi mới mới sớm quay về nước tìm kiếm sự đồng cảm đến muộn. Nhờ đó “Sông Côn mùa lũ” được ra mắt đồng bào trong nước năm 1998 (tái bản 2002), còn được một hãng phim trong nước mua bản quyền định chuyển thành phim…
Sau đó tiếp tục về nước nhiều lần, về thăm lại Huế quê hương thứ hai dù năm 2004 bị bệnh gan đã phải cắt một phần lá gan
Trong lúc còn bao nhiêu dự án ấp ủ đang hy vọng thực hiện trên quê mẹ thì trong một chuyến về nước làm việc kết hợp thăm bà con nhân ngày Tết 2009 mới được vài ngày thì bị đột quỵ ngã bệnh nặng phải lập tức được đưa về lại Mỹ chưa trị.
Từ đó phải ngồi xe lăn mọi việc trông nhờ vào vợ con chăm sóc, được 3 năm thì qua đời. Sau khi mất được giới phê bình trong nước ghi nhận là một “nhà văn nặng lòng với đất nước”.

1.171 – Bùi Quang Thận
NGƯỜI CẮM CỜ DINH ĐỘC LẬP
Đại tá Quân đội Nhân dân VN sinh 1948 tại Thái Bình – Mất 2012 ở Thái Bình (65 tuổi).
Trong khoảnh khắc lịch sử nhảy xuống xe tăng cầm cờ Mặt trận tiến vào dinh Độc Lập.
Vào bộ đội năm 1966 ở binh chủng Tăng – Thiết giáp.
Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh giải phóng Miền Nam, là đại đội trưởng tăng - thiết giáp chỉ huy một mũi tiến công đi đầu vào dinh Độc Lập (nay là dinh Thống Nhất). Bản thân có mặt trên xe tăng 843 là chiếc xe tăng thứ nhì tiến vào trong dinh (xe tăng thứ nhất mang số hiệu 390 đã húc đổ cổng dinh trước đó vài phút) liền nhảy xuống xe cầm cờ Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam xông vào dinh lên tận nóc dinh hạ cờ VNCH xuống để kéo lá cờ Mặt trận lên thay thế báo hiệu chế độ chính quyền “đổi chủ”.
Sau đó về Bắc được đưa đi học Liên Xô cũ 4 năm rồi về lại binh chủng cũ, làm tới chức Chủ nhiệm Tăng – Thiết giáp.
Đương nhiên được đề cử danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân song rốt cuộc không đạt tiêu chuẩn vì địa phương cấp xã không đồng thuận với lý do ông cụ thân sinh ở làng có dấu hiệu… mê tín dị đoan! Quân hàm cũng chỉ lên lon đại tá đến ngày về hưu năm 2000.

Về hưu ở quê nhà, cả ngày đầu tắt mặt tối phụ công việc làm ăn kiếm sống với gia đình, một mình lặn lội làm đầm tôm và phụ vợ mở cửa hàng bán gas, mình lo việc đi xe máy chở bình gas đến cho khách hàng…

1.172 – Đào Thiện Sính
GỬI HƠN 14.000 THƯ BÁO TIN LIỆT SĨ
Bộ đội về hưu sinh 1947 tại Hải Dương. Sống ở Khánh Hòa (2012).
Bộ đội trên chiến trường Miền Nam, tham gia đánh trận ở Tây Nguyên, miền đông Nam bộ. Năm 1973 được rút về làm Phòng Thông tin T.Ư Cục Miền Nam.

Sau 1975 xuất ngũ về quê. Nhưng qua 1979 lại được gọi tái ngũ đưa qua chiến trường Campuchia và Lào. Đến 1983 mới ra quân về quê nhà Hải Dương sinh sống. Lấy vợ sinh con, cả nhà sống bám vào nghề nông.
Năm 1988 đưa cả gia đình vào Khánh Hòa lập nghiệp, riêng mình được nhận vào làm bưu điện huyện.
Bản thân có một người anh trai cùng đi bộ đội hy sinh tại Miền Nam nhưng hoàn toàn mất tích nên lòng cứ nặng nỗi niềm muốn đi tìm dấu vết, thông tin về mộ phần, hài cốt anh giờ không biết lưu lạc nơi đâu. Lâu nay cố truy tìm tin tức anh trai bằng cách tìm đến các nghĩa trang xem mộ anh tình cờ có nằm ở đó không song gặp hoàn cảnh, điều kiện quá khó khăn nên chưa làm được bao nhiêu.
Từ khi vào Khánh Hòa mới có điều kiện đi thăm nhiều nghĩa trang liệt sĩ từ Quảng Trị vào Nam để tiếp tục tìm kiếm thông tin về anh trai nhưng vẫn chẳng có tăm hơi gì.
Tuy nhiên bù lại, qua những chuyến đi đó đã gặp gỡ biết bao người đồng cảnh ngộ như mình. Từ đó nảy sinh ra ý nghĩ nhân cơ hội đến nghĩa trang tìm anh mới “một công đôi việc” ghi chép thông tin về các ngôi mộ có dấu hiệu chưa được thân nhân viếng thăm rồi về nhà viết thư báo tin về địa phương (theo quê quán liệt sĩ ghi trên bia mộ) cho biết.

Để làm việc này đã lập cả một danh sách tên tỉnh thành, quận huyện, làng xã thay đổi qua các thời kỳ để đối chiếu tìm ra tên địa phương ngày xưa và bây giờ. Nhờ hồi trước từng làm nhiệm vụ ở phòng thông tin trong chiến khu nên đã có một số kinh nghiệm làm bài bản, khoa học.
Ban đầu phải viết thư tay, sau này mới có điều kiện photocopy mẫu lá thơ báo chỉ việc điền chi tiết vào nhanh chóng tiện lợi hơn. Nhưng phải mất tiền mua phong bì, tem thư so với đồng lương ít ỏi của một viên chức quèn. May mà dần dà nhiều người biết được công việc nghĩa tình thầm lặng này nên giúp đỡ tiền mua bì thư và cả bưu điện cũng cho miễn dán tem luôn.
Hành trình đi đến nghĩa trang bởi thế càng kéo dài ra tính ra đã đến cả hơn 100 nghĩa trang ở Miền Nam, tham dự cả các cuộc quy tập mộ liệt sĩ để góp nhặt thông tin thêm về tổng hợp lại.
Mỗi lần lên đường đều trang bị giống như thời bộ đội vào cuộc hành quân, chỉ có khác là bây giờ thủ sẵn chiếc kính lúp (để đọc những bia mộ qua thời gian mưa gió bị mờ hay nhòe chữ), sau còn có được chiếc máy ảnh con biếu cho để chụp lại toàn văn bia mộ đỡ nhọc công chép lại. Còn chuyện ăn ở thì đơn giản thôi, gặp đâu ăn đó, đụng đâu ngủ đó trong đó nơi tá túc ban đêm thuận lợi hơn cả chính là… nghĩa trang nơi mình đang “tác nghiệp”!

Cứ thế đã viết hơn 14.000 lá thư báo tin về mộ phần liệt sĩ gửi đi. Kết quả nhờ đó khoảng 30% trường hợp báo tin đã giúp người nhà đi tìm được mộ liệt sĩ. Nhưng không dám nhận sự báo đáp nào vì xem đây là việc “góp phần nhỏ làm được điều gì đó nhớ đến đồng đội đã ngã xuống” và “chỉ muốn làm lặng lẽ thôi”.
Tuy nhiên tin tức về anh trai mình thì vẫn biệt vô âm tín. Cho nên tự hứa với lòng mình “Ngày nào còn sống thì còn đi tìm anh, tìm đồng đội.”

1.173 - Miên Đức Thắng
TỪ NHẠC SINH VIÊN QUA GỐM SỨ
Nhạc sĩ Việt kiều Đức tên thật Phan Văn Thắng sinh 1948 tại Huế. Sống ở Đức (2012).
Vào Sài Gòn học ĐH Khoa học, từ đó tham gia phong trào sinh viên tranh đấu chống chế độ Thiệu – Kỳ theo Mỹ. Nổi tiếng với một số nhạc phẩm phản chiến hát tập thể như “Hát từ đồng hoang”, “Dậy mà di”…
Bị chính quyền VNCH bắt đưa ra tòa về tội chống đối rồi nhân đó đẩy đi lính trường Thủ Đức năm 1969. Ra trường sĩ quan chấp nhận lệnh bố trí đi làm đơn vị hậu phương quân đội ở Tây Nguyên.
Có lẽ vì vậy mà “mất điểm” với Cách mạng nên sau 1975 không được ưu ái, đành tự lực cánh sinh cùng vợ mở tiệm bán thuốc Tây. Đến năm 1989 theo gia đình vợ xuất cảnh qua Đức.
Trên xứ người xa lạ chuyển qua nghiên cứu làm nghề gốm sứ nghệ thuật kết hợp vẽ tranh hợp thời hơn có thể giúp mưu sinh.
Còn nhạc vẫn làm nhưng không thành công gây tiếng vang như xưa do đã qua rồi thời tuổi trẻ sinh viên đầy nhiệt huyết đấu tranh. Và nhạc bây giờ chuyển hướng tìm đến với tình yêu hoài niệm quê hương Huế hòa quyện với niềm tin đạo Phật, 2 yếu tố thường song hành nối liền nhau:
“Tôi sông thơm lòng mẹ
Tình đầy nguồn xa xôi.
Đi qua bờ thế kỷ
Mênh mang điệu ru hời.
Sen chiều lên áo mới
Nội thành hát à ơi
Sông ơi, lòng có biết, tôi, sông là bến đò”.
(Tôi, Sông là bến đò)
Vẫn thường xuyên về thăm quê hương, nhất là quê Huế thân thương ghi đậm dấu ấn một thời học trò Quốc Học.

1.174 - Trần Minh Dũng
“DŨNG VIỆT NAM”
Lao động Việt kiều Philippines sinh 1971 tại Khánh Hòa. Sống ở Philippines (2012).
Năm 1989 vượt biên đường biển đến Philippines.
Sống luôn ở đây làm nghề bán giày dép vỉa hè, lấy vợ bản xứ sinh được 5 con.
Từ năm 2004 trở thành ân nhân “cứu hộ” ngư dân VN đánh cá chẳng may xâm phạm lãnh hải Philippines bị bắt hoặc bị bão trôi giạt vào nơi đây không nơi nương tựa không ai giúp đỡ. Khi đó tự nguyện làm cầu nối trung gian với chính quyền địa phương, đóng vai trò thông dịch, chạy giấy tờ, thậm chí còn lo thủ tục tòa án trong trường hợp ngư dân bị đưa ra tòa Philippines. Đã giúp hơn 30 nhóm ngư dân VN như vậy.
Từ đó được ngư dân VN thân tình gọi là “Dũng VN” như kiểu “Thần hộ mạng”, hễ ai đi biển cũng đều có số điện thoại của anh để gọi cầu cứu lỡ khi lâm cảnh ngộ lạc qua nước bạn bất đắc dĩ. Cả hải quân Philippines tuần tra biển cũng có số điện thoại này phòng ngừa khi cần sẽ nhờ hỗ trợ, phiên dịch.
Trả lời tại sao làm việc không công như thế, chỉ nói đơn giản “Vì họ là đồng hương, ở xứ người thấy đồng hương gặp nạn không lẽ bỏ mặc?”

1.175 - Trần Ngọc Huế
TỪ NGƯỜI HÙNG ĐẾN TÙ BINH
Việt kiều Mỹ nhân viên ngân hàng về hưu sinh 1942 tại Huế. Sống ở Mỹ (2012).
Xuất thân thiếu sinh quân VNCH, sau đó vào trường Võ bị Đà Lạt.
Ra trường 1963 xin chuyển về Sư đoàn 1 đóng tại Huế để ở gần quê nhà đúng như tên cha mẹ đặt.
Đến trận chiến Mậu Thân 1968 tại Huế, là trung úy đại đội trưởng Đại đội Hắc Báo đơn vị đặc nhiệm thiện chiến “đánh đâu thắng đó” của Sư đoàn 1 chỉ huy đánh giải vây Bộ Tư lệnh Sư đoàn 1.
Từ chiến tích đó, được xem là một người hùng trẻ tuổi mới nổi lên của quân lực VNCH, được Tướng Tư lệnh quân Mỹ ở VN gắn huân chương, được Bộ trưởng Hải quân Mỹ tuyên dương là “Anh hùng của những anh hùng”. Cố vấn Mỹ rất khâm phục, còn đặt cho tên Mỹ là “Harry”.
Tiếp tục sự nghiệp quân đội thăng tiến, năm 1971 lên lon trung tá tham gia chiến dịch Lam Sơn 719 đánh Hạ Lào (Cộng sản gọi là chiến dịch Đường 9 Nam Lào). Không may đơn vị bị bao vây, bản thân bị thương nên chấp nhận ở lại cầm cự cho binh lính dưới quyền rút lui. Kết quả bị bắt đưa ra Bắc ở tù 13 năm.
Đến năm 1983 mới được trả tự do, vào Sài Gòn sống lây lất qua ngày.
May mắn có một cố vấn Mỹ cùng làm việc chung trước kia ở Sư đoàn 1 từng được sĩ quan Hắc Báo này cứu sống trong một trận đánh luôn nhớ ơn nên khi về Mỹ đã tìm mọi cách hỏi thăm tin tức, gửi tiền giúp đỡ.
Sau đó vận động cho bạn mình được bảo lãnh xuất cảnh qua Mỹ năm 1991 cùng vợ và 3 con gái, còn giúp đỡ tìm nhà, tìm việc làm nuôi gia đình.

1.176 - Trần Ngọc Liễng
LÃNH TỤ “LỰC LƯỢNG THỨ BA” CUỐI ĐỜI ĐI TU
Luật sư về hưu sinh 1923 tại Vĩnh Long – Mất 2011 ở Đồng Nai (89 tuổi).
Từng có quá trình thân Cộng từ năm 1954 làm việc chung với luật sư Nguyễn Hữu Thọ (sau là Chủ tịch Mặt trận Giải phóng Miền Nam).
Vì vậy bắt đầu năm 1966 từ nhiệm khỏi chức vụ ở chính phủ VNCH (phụ trách lĩnh vực xã hội) để tách ra hoạt động độc lập theo xu hướng chống Mỹ, chống chế độ độc tài quân phiệt Thiệu - Kỳ, đấu tranh đòi quyền tự do dân chủ cho người dân Miền Nam.
Từ đó trở thành một trong những đại diện trí thức của lực lượng chính trị tự nhận là “Lực lượng thứ ba” không Cộng hòa cũng không Cộng sản mà đứng giữa hai thế lực đó với tham vọng đóng vai trò trung gian hòa giải tiến tới lập lại hòa bình cho đất nuớc. Biến nhà mình thành một địa điểm hội họp của phe đối lập chế độ Sài Gòn.
Nhưng thực tế không được như kỳ vọng với chiến thắng của Cộng sản 30.4.75 đẩy “Lực lượng thứ ba” tại chỗ không còn chỗ đứng, nhiệm vụ gì nữa đành tự động… giải tán!

Bản thân được chế độ mới mời làm “nhân sĩ” vào Mặt trận Tổ quốc VN, một tổ chức mang tính quần chúng không quyền lực chỉ đóng vai trò “làm cảnh” dân chủ cho chế độ. Cho nên chẳng còn làm được gì nữa như mong mỏi khác với thời trước dù sao cũng làm được vài việc có ích cho đồng bào, xã hội trên tiến trình dân chủ hóa đất nước.
Có lẽ vì vậy mà mấy năm cuối đời đã lên một thiền viện ở Đồng Nai… tu luôn - có pháp danh đàng hoàng Thích Kiến Huyền - cho đến ngày qua đời.

1.177 - Trần Quốc Hoàn
VẬN ĐỘNG VIÊN CHẤT ĐỘC DA CAM
Người khuyết tật sinh 1975 tại Quảng Trị. Sống ở Quảng Trị (2007).
Cha là bộ đội bị nhiễm CĐDC nên mình ra đời đã 2 chân bị teo lại không đi được muốn di chuyển phải dùng tay bò đi.
Dù vậy vẫn phấn đấu học tốt nghiệp THPT. Nhưng nhà nghèo cha mẹ phải nuôi 6 anh em nên không có điều kiện học tiếp lên đại học.
Bản thân không cam chịu chí hướng mình dừng ở đó nên vừa tìm việc làm đơn giản kiếm sống qua ngày (nhận đập dẹp lon bia phế thải bán làm phế liệu đúc lại) vừa tự mở ra một lớp học tình thương tại nhà dạy cho các em nhà nghèo bỏ học nửa chừng. Song song đó còn tham gia tập luyện môn thể thao đua xe lăn.
Từ đó đã khiến một cô gái xứ Huế đem lòng yêu thương lấy làm chồng năm 2001.
Kết quả bao công công sức trì chí chiến đấu chống lại số phận không may mắn như thế giống như dã tràng xe cát biển Đông 10 năm đã giúp nhiều em học tốt nghiệp cấp 3 và còn lên đại học nữa. Phần mình đạt thành tích Huy chương vàng Hội thi Người khuyết tật toàn quốc 2001, Huy chương đồng Paragames toàn quốc 2003.
Cũng năm này còn đạt được một “siêu” huy chương nữa là có con gái đầu lòng quý hơn vàng.

1.178 - Trần Tam Tiệp
VĂN BÚT CHỐNG CỘNG
Nhà báo Việt kiều Pháp sinh 1928 tại Vĩnh Long – Mất 2009 ở Pháp (82 tuổi).
Trung tá tâm lý chiến binh chủng không quân VNCH, chủ biên nguyệt san “Lý tưởng” của binh chủng này.
Trong biến cố 30.4.75 di tản qua Pháp.
Tại đây vào năm 1978 cùng luật sư Trần Thanh Hiệp (nhóm Sáng tạo) và nhà thơ Nguyên Sa chủ xướng tái lập Chi hội Văn bút VN hải ngoại thành viên Văn bút Quốc tế (PEN Club) được công nhận. Bản thân giữ chức tổng thư ký 3 nhiệm kỳ liên tiếp.
Với chức vụ đó có điều kiện tổ chức mạng lưới viết bài chống Cộng ở nước ngoài lẫn trong nước tìm cách gửi qua đồng thời vận động tổ chức Văn bút Quốc tế chống Cộng, lên tiếng phản đối chế độ cộng sản VN vi phạm quyền tự do tư tưởng, sáng tác của người dân.
Các hoạt động trên đạt một số kết quả trong thời gian đầu trên trường quốc tế nhưng về sau dần dần giảm hiệu quả do phản ứng từ chính quyền VN ngày càng được củng cố.
Trong thời điểm khó khăn đó thì năm 1994 bản thân lại không may bị tai nạn giao thông nặng chấn thương sọ não. Tuy được cứu sống song từ đó không còn đủ sức khoẻ để tiếp tục tham gia hoạt động văn hóa chống Cộng như trước nữa cho đến khi di chứng bệnh phát tác qua đời.

1.179 - Trần Tâm
CÔNG DÂN KHÔNG QUỐC TỊCH NƯỚC NÀO!
Việt kiều Mỹ. Sống ở Mỹ (2007).
Cha là nhà báo chế độ chống Cộng nên sau 1975 bị bắt rồi chết trong tù.
Vì thế năm 1980 đưa gia đình (cả bà mẹ) vượt biên đường biển được một chiếc tàu Đức vớt đưa về Đức cấp giấy cho tạm trú.
Năm 1986 tự động đem gia đình rời khỏi Đức qua Mỹ theo một người anh kiếm việc làm ở một tổ chức xã hội tại Los Angeles đồng thời tranh thủ đi học đại học. Từ đó năm 2001 nộp đơn xin vào Mỹ tị nạn chính trị.
Nhưng bị bác đơn vì lý do trước đó đã ở Đức thì Đức phải giải quyết nên phía Mỹ ra lệnh trục xuất về lại Đức!
Tuy nhiên Đức cũng từ chối cho nhập quốc tịch Đức bởi đương sự và gia đình đang tạm trú mà đã tự ý bỏ Đức ra đi không xin phép quá thời hạn bình thường (như đi lo công việc riêng, đi thăm bà con hay du lịch) 6 tháng.
Thế là rơi vào tình trạng sống và làm việc tại Mỹ, giấy tờ tạm trú ở Đức song không được công nhận là công dân của… nước nào cả!
Mãi đến năm 2007 do dư luận cộng đồng Việt kiều ở Mỹ lên tiếng vận dộng mới được Quốc hội Mỹ gọi ra điều trần. Nhưng điều trần xong thì lại bị cảnh sát… bắt với lý do khong tuân hành lệnh trục xuất!
Cuối cùng được dân biểu Mỹ (Đảng Dân chủ) đại diện TP San Jose đông Việt kiều sinh sống can thiệp mới được tiếp tục cho phép tạm trú… chờ Uy ban Di trú Mỹ xem xét lại trường hợp này.

1.180 - Trần Thanh Sơn
NGƯỜI “KHÔNG THỂ TỰ ĐI”
Giảng viên đại học sinh 1984 tại Bình Định. Sống ở TPHCM (2012).

Cha là bộ đội nhiễm CĐDC nên mình sinh ra bị teo 2 chân, một tay bị teo 70%.
Chân như thế không đi được nhưng cũng không ngồi xe lăn tự đẩy được do tay quá yếu nên 12 năm học tiểu học đến THPT đều được cha cõng đến trường. May mà tay dù không bưng được chén cơm mà ăn song cũng còn đủ lực để cầm bút viết và sau này gõ bàn phím vi tính.
Từ đó học tốt nghiệp khoa công nghệ thông tin ĐH Khoa học Tự nhiên TPHCM. Đúng lúc đó thì người cha kính yêu qua đời vì chứng ung thư gan vỡ ra. Bây giờ phải nhờ bạn bè, bà con thay phiên nhau cõng mình đi học tiếp lên cao học đồng thời đi dạy môn tin học văn phòng tại ĐH Văn Lang.
Còn chịu khó học thêm ngành quản trị kinh doanh nhằm chuẩn bị sau này thực hiện ước mơ mở một ngôi trường nhỏ dạy miễn phí cho học trò khuyết tật cùng hoàn cảnh không may như mình: “Nếu mình đi được, con đường của mình sẽ khác. Nhưng mình không thể tự đi thì mình phải chấp nhận chuyện đó mà tìm cách khác để hòa nhập với cuộc sống.”

(Còn tiếp)