Băn Khoăn


Băn khoăn đọng lại giữa mùa thu
Nghe gió qua thềm bỏ hạ phai
Có phải thu về mang bối rối
Phủ kín đông buồn thoáng chơi vơi ?

Có phải băn khoăn hồn tự tại
Hay chiếc lá vàng vương vấn vương ?
Ngày mai lá úa tan vào cõi
Vô thường còn lại kiếp hoang vu 

Còn đây một chút vàng thu nhặt
Mang về ướp lại những ngày xanh
Để mai chỉ còn thân trơ trọi
Có chút nắng hồng xóa băn khoăn ..

Nụ Hôn Rơi


Ơ kìa! một nụ hôn,
Rơi rớt trong tình cờ,
Em thèm thuồng trân quý,
Nhặt về đem chắt chiu.

Mang ra khoe với gió,
Ướm cùng nắng ban mai.
Cho dù một thoáng muộn,
Vẫn là chút xôn xao.

Em nhốt môi hôn lại,
Ấp ủ cùng với đêm.
Ai ngờ anh rao bán,
Nụ hôn em cho ai!
 
Em về ôm ngày dại,
Khóc vùi từng đêm thâu.
Tiếc cho tình phai vội,
Ơi nụ hôn em đâu? ..

Nón Bài Thơ


O đi mô mà vội,
Bỏ nắng ngã sau lưng?
Đôi tà vương cuống quýt,
Nghiêng chiếc nón bài thơ.

O ơi! đừng vội rứa,
Để anh đọc bài thơ,
Ép trên vành nón lá,
Che tóc O mượt mà.

Răng bước chân vội vã?
Mái tóc dài buông lơi,
Ôm lưng ong diễm tuyệt.
O dấu hồn anh mô?

Chậm lại anh theo với.
Đừng dấu nụ cười xinh,
Thẹn thùng sau nón lá.
O bước chậm, O ơi!

Đi ngang qua Tràng Tiền,
O nhớ đi song song.
Anh sẽ cầu gió lớn,
Cho tóc tựa bờ vai.

Anh về tương tư tóc,
Che dưới nón bài thơ.
Anh mơ làm chiếc nón,
Che bước đời O qua..

Quyện Vào Nhau


Ngày và đêm hai màu đen trắng,
Trắng và đen màu của cuộc đời.
Có lúc đen như cà phê đọng,
Có chút màu khi trắng cuộc chơi. 

Mặt trời và trăng hai tinh thể,
Rất cần nhau như thể loài người,
Nhưng không đến gần bên nhau mãi.
Ôi tạo thế! tận cùng đổi thay.

Anh và em hai người xa lạ,
Gặp một lần mà đã như quen.
Chẳng thể xa và chẳng thể gần,
Chỉ đợi chờ, tròn những giấc mơ.

Tình em và anh hai giòng ngược,
Với mãi hoài sau những cuộc vui.
Lặn ngụp sâu tìm nhau trong cõi,
Thật, mơ hồ, đen, trắng, ngược, xuôi ..

Trời, trăng, đen, trắng, ngày và đêm.
Tình xa, tình vọng, tình gần, phai.
Em, anh, tinh thể trong màu nắng,
Yêu thương, hoà lẫn quyện vào nhau ..

HOA

White Chrysanthemum

81 ...KHÔNG CÒN NỮA . . .

NGẬM NGÙI…81

Ngày 17.11.2011, 81 bị xóa sổ hay nói cho đúng,điểm hẹn của giới văn nghệ sĩ Sài gòn không còn nữa. sau khoảng 36 năm tồn tại.

Tạm gọi là CLB hội Văn nghệ TP Hồ Chí Minh,thành lập sau ngày 30.4.1975,tại số 81 Trần Quốc Thảo ,quận 3,giới văn nghệ sĩ có một nơi để uống cà phê,nhậu và bốc phét,cũng là điểm hẹn của anh em văn nghệ sĩ cả nước đến Sài Gòn.

Ba mươi sáu năm kẻ còn người mất,chỉ trong số bạn bè tôi đã có những người có mặt thường xuyên ở đây dã ra đi rong chơi cõi khác như Nguyễn Tôn Nhan,Nguyễn Mai,Hoàng Ngọc Tuấn ,có bạn đi xa thỉnh thoảng trở về như Nguyễn Lương Vỵ, Đinh Trầm Ca.Bây giờ điểm hẹn không còn nửa.

Hôm 15,16 .11, anh em không ai rủ ai kéo đến 81 rất đông Bùi Chí Vinh,Trần Áng Sơn,Từ Hoài Tấn,Bảo Cường,họa sĩ Ngéo ,Hoàng Linh,Mặc Tuyện,Lê thị Kim,Lê Hồng Thái...Trước đó một ngày,Cao Huy Khanh,Văn Viết Lộc đến nhậu suốt buổi chiều để từ giả 81 trước khi về Huế,vì khi trở lại Sài Gòn 81 không còn nữa. .Tôi hỏi cảm nhận củaLê Hồng Thái,người lập kỷ lục có mặt thường xuyên ở 81 suốt 36 năm ,thậm chí bị một số anh em chup mũ là công an chìm theo dõi VNS. Anh trả lời : một chút ngậm ngùi…

CAO HUY KHANH - VN HỒ SƠ HẬU CHIẾN 1975 - 2011 (KỲ 93)



NHỮNG SỐ PHẬN KỲ LẠ



931 – Ngô Thụy Miên
VƯỢT BIÊN CHO TRỌN CUỘC TÌNH
Nhạc sĩ Việt kiều Mỹ tên thật Ngô Quang Bình sinh 1948 tại Hải Phòng. Sống ở Mỹ (2011).
Di cư 1954 vào Nam, học ĐH Khoa học Sài Gòn đồng thời với trường Quốc gia Âm nhạc Sài Gòn.
Trong thời gian theo học nhạc có một cuộc tình đẹp với một bạn cùng trường con một diễn viên điện ảnh. Từ đó có cảm hứng bắt tay sáng tác nhạc với bài “Chiều nay không có em” 1963. Sau đó là một loạt ca khúc trữ tình trong đó nhiều bài phổ thơ Nguyên Sa thành công như “Áo lụa Hà Đông”, “Paris có gì lạ không em?”, “Niệm khúc cuối”…

Sau khi tốt nghiệp đại học ra làm nhân viên không lưu sân bay Tân Sơn Nhất. Lập ban nhạc trình diễn đài phát thanh.

Chuẩn bị làm đám cưới với người yêu trường nhạc thì xảy ra biến cố 30.4.1975 khiến người yêu theo gia đình di tản qua Mỹ bỏ lại mình kẹt ở Sài Gòn. Buồn nhớ tình xưa mới làm bài tưởng niệm “Em còn nhớ mùa xuân”.

Năm 1978 quyết định vượt biên để tìm người yêu. May mắn cập bến Malaysia rồi được nhận vào Canada.

Biết tin, người yêu vội từ Mỹ bay qua tái hợp. Năm 1979 hôn lễ mới chính thức cử hành rồi theo vợ chuyển qua định cư Mỹ.

Đi học làm chuyên viên vi tính làm việc tại Thủ đô Washington.

Và tiếp tục viết nhạc nay càng thêm cảm hứng hạnh phúc cuộc đời tình yêu cứu chuộc được trải qua bao gian nan trắc trở vạn dặm sơn khê, sáng tác hơn 50 ca khúc nữa (“Mưa trên cuộc tình tôi”, “Riêng một góc trời”…) như một lời cảm tạ cuộc đời ban cho cuộc tình trọn vẹn: “Tôi không viết nhạc để sống mà sống để viết nhạc”.


932 – Ngô Vũ Dao Ánh
“TÌNH CHỊ DUYÊN EM” VỚI TRỊNH CÔNG SƠN
Công chức Việt kiều Mỹ về hưu sinh 1948 tại Huế. Sống ở Mỹ (2011).

Là em gái của “Diễm xưa” (Ngô Vũ Bích Diễm, nay ở Mỹ) mối tình đầu thời trẻ ở Huế của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn.

Nhưng mối tình với “Diễm xưa” vì nhiều lý do khách quan không được đáp lại như mong mỏi nên sau khi Diễm vào Sài Gòn học, họ Trịnh quay qua cô em như một cách “tìm quên”. Và được cô em chấp nhận trong thời gian nhạc sĩ đi dạy học ở Blao (Lâm Đồng) những năm 1964-1967.

Đó là nguồn cảm hứng làm nên một số ca khúc tuy không nêu tên rõ như “Diễm xưa” song đều phảng phất bóng dáng cô em như “”Tuổi đá buồn”, “Phúc âm buồn”, Lời buồn thánh”, “Như cánh vạc bay”, “Mưa hồng”…

Sau đó nhạc sĩ về Sài Gòn bắt đầu tạo lập sự nghiệp âm nhạc thì đôi bên xem như chia tay.

Đến 30.4.75 người em đi Mỹ lấy chồng. Nhạc sĩ vẫn ở lại Sài Gòn mới hoài nhớ bóng dáng xưa “Em đi để lại con đường”.

Qua những năm 1980 đôi bên mới nối lại liên lạc. Nhưng mãi đến năm 1993 người xưa mới trở về tái ngộ trong cảnh khá bẽ bàng riêng mình đã sang ngang. Có lẽ vì vậy mà sau đó qua lại Mỹ, người tình – em gái ấy đã ly dị chồng để từ đó được rảnh rang hơn tìm đường về thăm kỷ niệm.

Một tháng trước khi Trịnh qua đời, “người ấy” đã có mặt suốt ngày ngồi đó nhìn anh thở hơi thời gian tàn tạ, lắng nghe “Xin trả nợ người” gần như là bài hát “móc cả ruột gan” cuối cùng anh gửi đến mối tình thủa em còn là cô nữ sinh Đồng Khánh.

Đầu năm 2011 đã cho công bố hơn 300 bức thư tình Trịnh gửi cho mình ngày xưa, in thành một cuốn “Thư tình gửi một người”.


933 – Nguyễn Bá Cẩn
THỦ TƯỚNG CUỐI CÙNG
Chuyên viên máy tính Việt kiều Mỹ sinh 1930 tại Cần Thơ – Mất năm 2009 ở Mỹ (80 tuổi).

Từng đi lính sĩ quan VNCH rồi giải ngũ làm công chức chính quyền tới chức quận trưởng, phó tỉnh trưởng. Sau đó ra ứng cử đắc cử dân biểu Quốc hội được bầu làm Phó Chủ tịch Hạ viện.

Vốn là người bản tính hiền lành, sống đạo đức thanh bạch không nghiêng về phe phái nào rõ rệt nên đầu tháng 4.1975 trong cơn khủng hoảng chính trị nội bộ chính quyền Sài Gòn đã được Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu mời giữ chức thủ tướng thay tướng Trần Thiện Khiêm “hết vai trò” rồi.

Nhưng nhậm chức chưa được ba tuần lễ chưa làm được gì thì cộng sản tiến vào Sài Gòn buộc bản thân phải di tản gấp rút qua Mỹ, vợ và con gái ở lại sau mới qua theo đường Paris, Pháp.

Trên đất Mỹ ban đầu mở trạm bán xăng song được ba tháng không quen nghề lỗ vốn đành chuyển qua đi học đại học ngành công nghệ cao dù lúc đó đã 46 tuổi.

Tốt nghiệp năm 1979 ra làm chuyên viên lập trình máy tính. Đến 1998 về hưu.

Dù là cựu thủ tướng cuối cùng của chế độ VNCH song hầu như ít tham gia hoạt động chính trị hải ngoại, chỉ có viết hồi ký nhằm mục đích “nói về sự thật mà thôi” chứ “không tấn công chê trách ai cả, không thành kiến với ai cả”.

Với tâm hồn nay đã nhẹ gánh của một người công chức mẫn cán chấp nhận an phận thủ thường sau cơn bão tố lịch sử, không vướng bận danh vọng gì nữa: “Tổng kết cuộc đời, tôi đã làm việc 30 năm cho VNCH và 20 năm cho đại tư bản Hoa Kỳ. Suốt 50 năm không nghỉ ngơi! Mỗi ngày tôi phải lái xe trên 100 dặm đi làm, về nhà thì giặt giũ, phụ giúp việc nội trợ, vệ sinh… Tôi làm mọi việc mà vẫn thấy yêu đời, yêu cuộc sống bởi lương tâm tôi thanh thản vì đã phụng sự Tổ quốc mà chưa hề làm gì tổn hại cho Tổ quốc và đồng bào.”

Duy chỉ có một nỗi đau đời riêng thầm lặng không nói ra là có thời gian khi người con gái bị tai nạn giao thông chết đã buồn khóc đến gần mù mắt, sau nghe lời khuyên mới đi hành hương đến tượng đài Đức Mẹ tại TP Lourdes ở Pháp cầu nguyện xin cho khỏi bệnh. Trở về quả là bệnh có thuyên giảm thật nên mới bỏ đạo Phật cải qua đạo Thiên Chúa.


934 – Nguyễn Bạt Tụy

NHÀ VĂN HÓA CÔ ĐƠN TRƯỚC THỜI CUỘC
Học giả sinh 1920 tại Hà Nội – Mất 2007 ở Đà Lạt (88 tuổi).

Di cư 1954 vào miền Nam, chọn Đà Lạt làm nơi đóng đô suốt đời để một mình cặm cụi làm công việc nghiên cứu dân tộc học và ngôn ngữ học VN dựa vào kiến thức tự học là chính. Nhưng vào thời đó đây được xem là 2 ngành khoa học xã hội – nhân văn mới mẻ mà lại thuộc loại “khó nhằn”.

Dù vậy vẫn thầm lặng say mê bám trụ làm một cách hết sức nghiêm túc, công phu bằng vô vàn chuyến đi điền dã đến vùng các dân tộc thiểu số vùng này (đồng bào dân tộc trên cao nguyên, người Chăm), thâm nhập quan sát, tìm hiểu, tìm tài liệu rồi về bắt tay soạn thảo nhiều công trình vừa giá trị vừa hiếm có. Hoàn toàn tự thân xoay xở để làm chứ không được ai hay cơ quan nào giúp đỡ, tài trợ.

Tuy nhiên những công trình trên không được công bố rộng rãi có lẽ một phần do tính khoa học quá cao mà bản thân mình lại không thuộc giới hàn lâm, không xuất thân từ các đại học trong nước. Chỉ in thành sách cuốn “Ngôn ngữ học VN” 1959, còn lại một số ít bài viết công bố rải rác trên tạp chí ở Sài Gòn hay gửi qua Trường Viễn Đông Bác Cổ ở Pháp.

Công việc đang dở dang thì xảy ra biến cố 30.4.1975. Không khí chính trị thời điểm này buộc bản thân phải ngưng các cuộc đi điền dã đến vùng xa vùng sâu dân tộc thiểu số đương nhiên bị cấm vì lý do trật tự trị an thời Hậu – VNCH.

Bức xúc quá nên dù không quan tâm gì đến chuyện thời cuộc, chính trị – bản thân không dính líu hưởng ơn mưa móc gì của chế độ cũ, cũng không chống Cộng – ngay tháng 7.1975 vẫn viết một lá thư gửi lãnh đạo Tố Hữu phụ trách văn hóa – tư tưởng lúc đó xin cấp cho một giấy phép được đi đây đi đó tác nghiệp dân tộc học và ngôn ngữ học VN. Kèm theo là 12 trang đánh máy kê khai danh sách những công trình đó đã và đang làm.

Nhưng không hề nhận được hồi âm. Dễ hiểu thôi, vào thời đó ai mà để ý tới chuyện nghiên cứu những đề tài thuộc loại bác học “trên trời” mơ hồ phi thực tế như thế. Chưa kể tác giả lại là dân di cư sống trong lòng chế độ cũ mà không có quan hệ gì với Cách mạng cả (có một người em ở miền Bắc là một dịch giả tiểu thuyết Nga nổi tiếng, đã mất 2007).

Thế là đành bó tay bó chân một chỗ gom bao tư liệu đã thu thập được để tiếp tục nghiên cứu và biên soạn trong hoàn cảnh vẫn đơn thân độc mã làm khoa học không vợ con hay người thân bên cạnh. May mà được phép mở lớp dạy ngoại ngữ tại nhà lấy đó làm kế sinh nhai qua ngày.

Cứ thế kéo dài đến hơn 30 năm tới khi qua đời cô độc, đám tang do học trò lo liệu.

Để lại một sự nghiệp chuyên môn cao cấp đồ sộ gồm những công trình dân tộc học và ngôn ngữ học VN quy mô tầm cỡ mà từ đó đến cả bây giờ vẫn không ai được biết: Về bản thảo là 2 tác phẩm về dân tộc học dày 500 trang đánh máy, 4 tác phẩm về ngôn ngữ học trong đó có cuốn quan trọng “Ngữ âm học VN”; về tài liệu gồm khoảng 15.000 tấm phim đen trắng, gần 4.000 tấm phim màu, hơn 5.000 phim đèn chiếu, vô số băng ghi âm, phiếu tư liệu…

Tất cả đều được tác giả bảo quản trong nhiều “tủ sắt” nhỏ cực tốt cũng là dấu ấn ghi lại một thời khói lửa loạn lạc chính là những… thùng (chứa) đạn Mỹ!

935 - Nguyễn Bắc Ngọc
17 NĂM TRỞ VỀ… LÃNH ÁN TÙ!
Doanh nhân Việt kiều Úc sinh 1950 tại Phú Thọ. Sống ở Úc nhưng đang bị tù ở VN (2004).
Sĩ quan bộ đội sau 75 xuất ngũ về quê sinh sống lỡ phạm tội giết người bị bắt lãnh án 20 năm tù năm 1987.

Tìm cách vượt ngục trốn thoát rồi tìm đường vượt biên qua Úc làm ăn khá thành công, vào quốc tịch Úc đàng hoàng.

Nhưng mãi 17 năm sau một phần vì lòng nhớ quê và phần khác tưởng rằng tội trạng xưa đã rơi vào… quên lãng nên năm 2004 lên đường về thăm cố quốc. Ai ngờ tội ấy vẫn còn bị người khác ghi nhớ nên phát hiện bắt lại tiếp tục thụ án cũ cho hết thời hạn!

936 – Nguyễn Cao Thăng
OPV MỘT THỜI VÀ BÂY GIỜ
Dược sĩ sinh tại Thừa Thiên – Huế - Mất 1975 ở Sài Gòn.
Dân Công giáo nhưng đã tham gia kháng chiến chống Pháp ở chiến khu Quảng Trị – Thừa Thiên.
Năm 1951 bỏ chiến khu về Huế mở nhà thuốc Tây gần cầu Tràng Tiền.

Do bên nhà vợ có bà con xa với gia đình Tổng thống Ngô Đình Diệm nên được chế độ Diệm ưu ái đưa ra ứng cử dân biểu. Đồng thời thành lập Công ty Dược phẩm OPV rất thành công trên thị trường, trở thành một trong những doanh nhân giàu nhất VNCH.

Đến chế độ Nguyễn Văn Thiệu vẫn giữ được vị trí làm kinh tài – chính trị cho Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, còn làm trợ lý liên lạc với Quốc hội. Một bà vợ cũng đắc cử dân biểu thời NV Thiệu.

Nhưng bên cạnh đó cũng mang tai tiếng dựa thế tổng thống để trốn thuế. Lại có giả thuyết nghi ngờ bản thân vẫn dính líu đường dây “tình báo nằm vùng” cho cộng sản, thậm chí còn ngầm tổ chức bán thuốc Tây cho… Việt Cộng!

Đầu năm 1975 đi Pháp công tác rồi mắc bệnh đột tử ngay trên chuyến bay trở về Sài Gòn.

Đến biến cố 30.4.1975 vợ con sớm di tản ra nước ngoài (chú ý có rất nhiều vợ, khoảng 6 vợ trong đó có 2 cặp… chị em ruột!).

Nhưng giữa những năm 1980 hai người vợ đã trở về VN khá sớm ngay khi VN mới bắt đầu Đổi Mới để tái lập thương hiệu OPV cũng đạt thành quả tốt đến bây giờ. Được Nhà nước biểu dương, tặng huân chương lao động.

937 -
Nguyễn Công Phương
THƯƠNG PHẾ BINH RA ĐIỀU TRẦN QUỐC HỘI MỸ
Thương phế binh VNCH sinh 1942 tại Quảng Nam. Sống ở Quảng Nam (2010).
Lính VNCH năm 1974 đạp phải mìn bị cụt chân.
Sau 1975 không còn chế độ thương phế binh chế độ cũ khiến phải bò lê lết trên đường ăn xin thê thảm.

Năm 1992 may mắn được đại diện Hội Cứu trợ người tàn tật VN (ở Mỹ) gặp tại bến xe mới cấp cho một chiếc xe lăn đổi qua nghề bán vé số cho đỡ hơn. Rồi được tìm cho việc làm thêm gác cổng một xưởng làm nước đá đỡ đần cho vợ nuôi 2 con.

Vậy mà có lúc cũng bị địa phương tìm cách o ép bắt nộp tiền phạt vì không … “đăng ký” xe lăn hợp pháp!

Năm 2009 được đại diện hội đưa qua Mỹ ra làm nhân chứng trong buổi điều trần trước Ủy ban của Quốc hội Mỹ về tình trạng thương phế binh VNCH khốn khổ mất trợ cấp của chế độ cũ đang rất cần được giúp đỡ.

938 – Nguyễn Duy Xuân
VIỆN TRƯỞNG ĐẠI HỌC CHẾT CẢI TẠO
Giáo sư đại học sinh 1925 tại Cần Thơ – Mất 1986 tại Hà Nam Ninh (62 tuổi).
Du học Pháp, Anh, Mỹ tốt nghiệp tiến sĩ về miền Nam năm 1963.

Ban đầu dạy ĐH Luật, Học viện Quốc gia hành chánh, từ đó dần trở thành nhà trí thức khoa bảng làm quan chức lớn chế độ Sài Gòn giữ nhiều trọng trách như tổng giám đốc thông tấn xã, viện trưởng đại học, bộ trưởng, tổng giám đốc ngân hàng, cố vấn cho Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu…

Đặc biệt được xem là người góp công nâng cấp thành lập ĐH Cần Thơ năm 1966 rồi trực tiếp làm viện trưởng 1972 đến ngày giải phóng.

Đến ngày giải phóng đó đã tự nguyện không đi di tản nhưng vẫn phải đi cải tạo dài ngày hơn 10 năm tận ngài miền Bắc xa xôi rét mướt do bị đánh giá là quan chức lớn của chế độ cũ. Và rồi tuổi già sức yếu mòn mỏi đã khiến không qua khỏi bệnh tật qua đời trong trại cải tạo.

GS Phạm Hoàng Hộ nhà khoa học nổi tiếng cũng chấp nhận ở lại (nay đã ra nước ngoài) đã trang trọng đề tặng công trình lớn “Cây cỏ miền Nam” của mình cho người bạn thân “người đã chết trong tù vì tháng 4.1975 đã quyết định ở lại để tiếp tục đóng góp cho đất nước”.

Đáng tiếc thiện chí “đóng góp” đã không được tiếp nhận hay tiếp nhận một cách phũ phàng tàn nhẫn đối với một nhà trí thức kỳ cựu.

Sau khi mất, vợ đã tìm đường đưa 2 con gái qua Pháp.

939 – Nguyễn Đạm Phong
NẠN NHÂN CỦA “DIỆT CỘNG HƯNG QUỐC ĐẢNG”
Nhà báo Việt kiều Mỹ sinh 1934 tại VN – Mất 1982 ở Mỹ (49 tuổi).
Năm 1975 di tản đến Mỹ làm chủ nhiệm tuần báo tiếng Việt “Tự do” lớn nhất Houston thuộc bang Texas.

Năm 1982 đã cho đăng một loạt bài tố cáo hoạt động gây quỹ mờ ám của một số tổ chức chống Cộng nên nhận được nhiều lời đe dọa sát hại. Vẫn bất chấp tất cả nên trong một lần lái xe về tới nhà thì bị bắn chết tại chỗ.

Sau đó tổ chức “Diệt Cộng hưng quốc đảng” (VOECRN) tự nhận mình là thủ phạm song cảnh sát Mỹ vẫn không điều tra ra tông tích (hoặc có thể chỉ điều tra… qua loa do thời này chưa lập lại quan hệ bình thường với VN).

940 – Nguyễn Đan Quế
BẤT ĐỒNG CHÍNH KIẾN CHẤP NHẬN Ở LẠI VÀO TÙ
Bác sĩ sinh 1942 tại Hà Nội. Sống ở TPHCM (2011).
Theo gia đình di cư 1954 vào Nam.
Du học Bỉ và Anh tốt nghiệp bác sĩ chuyên về bệnh ung thư. Về miền Nam làm Bệnh viện Chợ Rẫy và dạy ĐH Y khoa.

Sau 1975 vẫn tiếp tục hành nghề tại BV Chợ Rẫy.

Song song đó bắt đầu hoạt động chính trị chống chế độ cộng sản, đấu tranh cho tự do dân chủ và chế độ đa nguyên đa đảng. Bởi vậy năm 1978 bị bắt đi cải tạo 10 năm đến 1988.

Ra tù rồi vẫn tiếp tục con đường “bất đồng chính kiến” đối lập chế độ hiện hành bằng cách thành lập tổ chức “Cao trào nhân bản”. Vì thế năm 1990 bị bắt lần thứ hai ra tòa về tội “xâm phạm an ninh quốc gia” bị kết án 30 năm tù.

Tuy nhiên năm 1998 được các tổ chức nhân quyền nước ngoài vận động được giảm án trả tự do.

Dù vậy, về nhà lại chiến đấu tiếp tục chủ yếu viết tài liệu phản kháng chế độ gửi ra nước ngoài, nơi có một ông anh ở Mỹ tiếp sức. Thế là năm 2004 bị ra tòa xử thêm 30 tháng tù tội “âm mưu lật đổ chính quyền”.

Thụ án được 6 tháng thì lại được vận động ân xá.

Lúc đó Mỹ sẵn sàng nhận bảo lãnh qua Mỹ như nhiều trường hợp các nhân vật chống chế độ khác song lại từ chối, chấp nhận ở lại trong nước để tiếp tục sự nghiệp đấu tranh dũng cảm thay vì “bỏ chạy”! Với quan điểm đấu tranh tại chỗ mới có hiệu quả, tuy không thay đổi được chế độ song ít ra cũng làm chế độ từng bước chuyển biến tích cực hơn mà cụ thể là đổi mới cởi mở hơn để hội nhập với thế giới.

Quan điểm đấu tranh phi bạo lực kể trên (dường như có thay đổi uyển chuyển “nhẹ” hơn) được Đại sứ Mỹ ủng hộ, đến nhà thăm động viên, còn mời đến lãnh sự quán ở TPHCM dự lễ Quốc khánh Mỹ!

Đầu tháng 2.2011 lên mạng hô hào biểu tình bắt chước phong trào quần chúng biểu tình lật đổ chế độ khởi phát từ Ai Cập lan qua Trung Đông và Bắc Phi nên lại bị bắt lần thứ tư. Nhưng lần này chỉ vài ngày thì cho về với lý do già yếu bệnh tật (cao huyết áp và đau bao tử).

(Còn tiếp)

NHÀ THƠ NGÀN THƯƠNG ; THONG DONG NHẶT NHỮNG ÂN TÌNH - NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO

Nhà thơ Ngàn Thương (thứ hai từ trái qua) với các bạn văn

Quen ông ở Huế từ thời còn sinh viên, tôi vẫn hay đùa ông rằng khi nhà thơ Ngàn Thương làm thơ, hình như trong lòng ông có sóng đang tràn chảy. Ông cười: "Có đâu, thơ đến bất chợt khi ta nắm được cái lõi của mỗi ngày, khi ta ngồi tiếc thời gian vô thức trôi đi trên sông Hương hay mỗi buổi sớm sương chăng đầy Thành nội". Người thơ lặng lẽ đó, vẫn lần lượt cho ra đời nhiều tập thơ mang nặng nỗi niềm. Vui với bạn văn, đôi khi ông quên bẵng ngoài kia cuộc đời mệt nhoài bước chân. Đôi khi ông tĩnh tại để rồi trong cái tĩnh tại đó, lại hát ca một mình rằng nương câu hát cũ gởi buồn chân mây.
Trong chuyến vào Đà Nẵng cùng mấy bạn văn, ông gửi tặng tôi tập thơ mới nhất của mình vừa xuất bản với cái tên "hiền khô": "Thủng thẳng qua cầu". Đọc thơ ông, nhận ra, sau từng câu chữ, có lẽ, đối với ông, cuộc sống này đúng là bình thản thật! Không ồn ào, câu nệ. Không ghen ghét tị hiềm. Không nặng lời trắc ẩn. Và như thế "ngẫm cho cùng- thơ vẫn là trò chơi con chữ-Cái của tôi, con người tôi-không thể khác - Giữa chập chùng hồn vía- thơ tôi" (Với thơ).
Mấy mươi năm làm thơ, sống với thơ sau những ân tình bầu bạn, từ tập thơ đầu tiên Trong vườn trí tưởng, NXB Sài Gòn 1973 đến nay, ông lần lượt trình làng những tập thơ như Lắng giữa chiêm bao (NXB Thuận Hóa 1998), Nến chiều (NXB Thuận Hóa 2002); Dấu chân phố (NXB Thuận Hóa 2006), Thủng thẳng qua cầu (NXB Thuận Hóa 2011). Mỗi tập thơ là một nỗi niềm, một cung bậc tình cảm, nhưng đằng sau đó, người đọc dễ nhận ra chân dung một người thơ bình dị. Không cầu kỳ, không trau chuốt, ông cũng có thế mạnh làm thơ lục bát, nhưng cũng rất say lòng khi đổi mới, cách tân những đứa con tinh thần của mình để bước vào nhịp phát triển chung của nền văn học nước nhà.
Thơ Ngàn Thương mang nặng một nỗi lòng. Đó là cái trăn trở của người cầm bút luôn neo trong mình nỗi đa mang. Vẫn cười đó, vẫn hoan ca nhưng đôi khi nụ cười chợt lịm. Rồi như thể, mọi sự trên đời này đều vô ngôn. Thế giới im bặt. Con người náu mình trong cô đơn mà viết nên đôi câu thơ trải lòng: "Dưới tầng - tháp cổ chiều nao - khói sương hư ảo - thả vào hoàng hôn - ta thành tượng đá - vô ngôn - niềm riêng điếng tận ngàn phương - cũng đành..." (Vô ngôn). Như ông vẫn vui nói rằng, thơ sống với mình như hơi thở, đi đến đâu cũng có bầu bạn thơ văn sẻ chia đôi điều. Đó là hạnh phúc. Đó là may mắn. Nên chi ông vẫn thủng thẳng bước đi trong bao chộn bộn lo toan thường nhật hằng ngày: Cọng tóc chênh - mình tôi cảm nhận - ước mơ bay xa đậu chỗ em nằm - con nhện buồn buồn giăng giăng mãi - sợi tơ ngỡ ngàng - nghe tiếng vọng trăm năm (Bóng đời).

Đà Nẵng, tháng 10-2011

Nguyễn Thị Anh Đào
(Theo CADN)

THĂM ĐỒNG - PHAN LỆ DUNG

Tôi,cô bé tuổi mười lăm,
mang sau lưng cánh đồng,
ngẩn ngơ đi vào phố,
chưa quên
buổi chiều
nhặt nhạnh mãi hoàng hôn.
Thuở ấy,cánh đồng thơm.
Gió mùa thu thổi thấp sà trên mặt ruộng.
Đàn cò trắng bay lên
cuốn cả đồng vàngvào đôi cánh.
Tôi nhặt lúa khô
Bon trẻ đốt rạ
Lũ chuột đồng cay mắt
Mấy con châu chấu nóng chân nhảy bần bật
Đàn vịt chiều lạch bạch dưới chân mương.
Buổi chiều se lạnh
Mẹ gặt lúa vàng.

Giờ đây, trên cánh đồng,
Tôi như đứa trẻ lạc mẹ
ngẩn ngơ đi giữa chiều vàng
Lòng xao xác nhớ.

Giờ đây,trên cánh đồng
mây trắng
Hoa cỏ đắng lăn tăn nở trắng bờ đê,
Có con chim
ngơ ngác
đi tìm hạt nắng cuối mùa.
Còn tôi
tìm mãi...
...chiều tà.

RA MẮT TÁC PHẨM MỚI NHÀ THƠ MAI TRINH ĐỖ THỊ

Trưa ngày 15 tháng 11 năm 2011,tại CLB hội Văn nghệ TP Hồ Chí Minh,nhà thơ Mai Trinh Đõ Thị ra mắt tác phẩm thơ Có Một Hôm Tình Yêu Thơm gồm 78 bài thơ với nhiều thể loai lục bát,tự do,thơ năm chữ ....Phần phụ lục trích Trường ca Gia đình -Quốc Đạo và Trường ca Tình yêu (mỗi trường ca gồm 6.ooo câu)

Đến dự có các nhà thơ,nhà phê bình biên khảo,dịch giả Nguyễn Tiến Văn,Mịch La Phong,Mặc Tuyền,Nguyễn Miên Thảo,Vũ Trọng Quang,Trần Hữu Dũng,Vũ Hà Nam,Nguyễn Đình Bổn,Hoàng Linh,Trần Hoài,Tuấn Khanh,Lê Thị Kim,Lê Tú Lệ ,Bùi Chát,Chiêu Anh...và bằng hữu

MỪNG SINH NHẬT CHÁU NỘI 4 TUỔI



NGUYỄN LÊ KHANG THỊNH

14 THÁNG 11




. . .

KHI THẤT TÌNH THƠ CŨNG BỎ TA ĐI - NGUYỄN MIÊN THẢO

Này thơ ơi ta đâu phải vô nghì
Khi thất tình thơ cũng bỏ ta đi
Ta sợ nhất khi không còn yêu được
Mà nghìn năm em vẫn mãi xuân thì


CHẲNG CÓ CHIỀU NÀO - TRẦN DZẠ LỮ

Chẳng có chiều nào em cho anh
Môi thơm ghé xuống nụ hôn trầm
Tay đan mộng mị quanh tình nhớ
Mắt gọi mắt về nơi phố xanh…

Chẳng có chiều nào em nhắn tin
Yêu nhau đến chết cũng đi tìm
Lòng ai da diết vin da diết
Ngực cứ căng tròn đêm tháng giêng!

Chẳng có chiều nào em cho anh
Về nơi trú ngụ, tóc đang huyền
Mình như đôi sẻ khi trời rét
Khép nép vào nhau để ấm êm !

Chẳng có chiều nào em nhớ anh
Như anh phát sốt thuở trông tìm
Một ngôi sao thật bình yên ấy
Sao của lòng anh –sao của em !

Chẳng có chiều nào không tiếc thương
Bàn tay năm ngón búp măng mềm
Đã xa xôi quá làm sao níu
Hạnh phúc đang xòe em của anh ?

Trần Dzạ Lữ
( SaiGòn tháng 7 năm 2011 )

BÀI VĂN LẠ CỦA HỌC TRÒ NGHÈO GÂY 'SỐC' VỚI GIÁO VIÊN TRƯỜNG AMS

“Trời ơi là trời ! Anh ăn đi cho tôi nhờ, đừng có nhịn ăn sáng nữa. Đừng có dở hơi đi tiết kiệm mấy đồng bạc lẻ thế, anh tưởng rằng thiếu tiền như thế thì tôi chết à ?”. Đó là những “điệp khúc” mẹ cất lên hàng ngày dạo gần đây vì con quyết định nhịn ăn sáng đi học để tiết kiệm chút tiền cho mẹ, cho gia đình. Có lúc mẹ còn gắt lên, hỏi con “Sao cứ phải đắn đo khổ sở về tiền đến thế nhỉ ?” .
Trên đây là bài văn của học trò Nguyễn Trung Hiếu, hiện là học sinh lớp 11 chuyên lý, trường trường Ams (THPT chuyên Hà Nội - Amsterdam). Bài văn “lạ” trước hết bởi đề bài văn nghị luận cô giao là “Nêu quan điểm của anh (chị) về vai trò của đồng tiền trong cuộc sống”, thay vì trình bày chung các quan điểm thì Hiếu đã lấy ngay câu chuyện thật đang phải trải qua của gia đình mình để nhìn nhận, phân tích vai trò của đồng tiền.

Bài văn của em đã lật tung quan niệm bấy lâu nay của nhiều người coi trường Ams là trường “của con nhà giàu” (!?). Nhìn cách tiêu xài hay xe cộ sử dụng để đến trường của một bộ phận học sinh trường Ams, rất nhiều người cứ nhầm tưởng như thế. Chỉ những thày cô giáo đang công tác ở trường Ams mới hiểu rõ đó là ngộ nhận. Trường THPT chuyên Hà Nội - Amsterdam là nơi quy tụ các học sinh giỏi, còn trong hàng nghìn học sinh đang theo học ở trường cũng có rất nhiều hoàn cảnh, số phận. Và trường hợp em Nguyễn Trung Hiếu là một ví dụ.

Tuy nhiên, bài văn của Hiếu cũng đã gây “sốc” với ngay chính nhiều thày cô đang giảng dạy tại trường bởi hoàn cảnh của gia đình em. Và hơn thế, các thày cô rất khâm phục ý chí nghị lực của cậu học trò nghèo nhưng học giỏi này. Hiếu chưa nằm trong tốp học sinh xuất sắc của trường, nhưng cũng là một học sinh khá thông minh. Năm học vừa qua em đã đoạt giải nhì trong kì thi Olympic vật lí và cuối năm được cô giáo chủ nhiệm nhận xét trong học bạ là học sinh học giỏi đều các môn học.

Đến thăm gia đình em mới thấy hoàn cảnh gia đình quả rất khó khăn. Mẹ Hiếu (chị Nguyễn Thị Hạnh) bị suy thận mãn tính nặng phải chạy thận đã 8 năm. Bố Hiếu (anh Nguyễn Xuân Sơn) sức khỏe kém, theo bà nội em kể thì bố em từ nhỏ bị viêm tai giữa, đến khi phát hiện máu chảy ra đằng tai mới cho đến bệnh viện thì đã muộn, bác sĩ nói đã “ăn vào não” và để lại di chứng là trí nhớ và sức khỏe bị giảm sút, không có khả năng lao động. Bà nội Hiếu đã cao tuổi mắt lòa. Mọi chi tiêu cho 5 người trong gia đình Hiếu ở giữa Hà Nội trong thời buổi giá cả leo thang đều chủ yếu trông chờ ở số lương hưu ít ỏi của ông nội em - một cựu quân nhân hiện đang ốm nằm liệt giường …

Cảm thông với gia cảnh của em, Ban giám hiệu nhà trường đã phát động phong trào “Nhà giáo trường Ams đỡ đầu cho học sinh nghèo, học sinh có hoàn cảnh đặc biệt”. Sau một tháng triển khai, tính đến trung tuần tháng 10/2011, ban vận động đã nhận quyên góp và chuyển tới em Nguyễn Trung Hiếu số tiền là 12,9 triệu đồng và một bộ laptop. Ngoài ra, để có nguồn tài chính ổn định và giúp em Hiếu có điều kiện học tập nâng cao trình độ các thày cô còn có hình thức chia sẻ phong phú khác như trích lương “tặng hàng tháng” cho em Hiếu 450 ngàn đồng; thày Nguyễn Trọng Tuấn nguyên hiệu phó nhà trường cam kết cho em Hiếu vay hàng tháng 500 ngàn đồng cho đến khi học hết lớp 12; còn cô Nguyễn Thúy Hằng giáo viên toán thì tặng em một suất học bổng cho tất cả các môn học ở trung tâm “Học mãi”… Hiện nay cuộc vận động vẫn tiếp tục được triển khai.

Nguyễn Trung Hiếu cho biết em rất xúc động trước tình cảm các thày cô dành cho em và gia đình. Em không còn phải nhịn ăn sáng để đi học nữa. Em tự hứa sẽ thật cố gắng để giành thành tích cao hơn trong học tập nhằm vượt lên số phận và để ngày mai lập nghiệp, không phụ lòng mong mỏi của các thày cô, của gia đình …

Vũ Quốc Lịch
(
Giáo viên trường THPT chuyên Hà Nội Amsterdam)

*Dưới đây là bài văn của Hiếu đã gây “sốc” với giáo viên trường THPT Hà Nội - Amsterdam.

Thư gửi mẹ.

Mẹ thân yêu của con !

“Trời ơi là trời ! Anh ăn đi cho tôi nhờ, đừng có nhịn ăn sáng nữa. Đừng có dở hơi đi tiết kiệm mấy đồng bạc lẻ thế, anh tưởng rằng thiếu tiền như thế thì tôi chết à ?”. Đó là những “điệp khúc” mẹ cất lên hàng ngày dạo gần đây vì con quyết định nhịn ăn sáng đi học để tiết kiệm chút tiền cho mẹ, cho gia đình. Có lúc mẹ còn gắt lên, hỏi con “Sao cứ phải đắn đo khổ sở về tiền đến thế nhỉ ?” .

Mẹ ơi, những lúc ấy mẹ đang giận nên con không dám cãi lại. Nhưng giờ đây con muốn được bày tỏ lòng mình rằng tại sao con lại có những suy nghĩ, hành động kì lạ như vậy. Vâng, tất cả là vì tiền. Chỉ đến tận bây giờ con mới nhận ra cả một quãng thời gian dài trước đó con đã non nớt, ngây thơ biết chừng nào khi nghĩ về tiền. Cách đây 8 năm bệnh viện đã chuẩn đoán mẹ bị suy thận mãn tính độ 4 (độ cao nhất về suy thận). 8 năm rồi nhà ta đã sống trong túng thiếu bần hàn, vì bố mẹ không kiếm được nhiều tiền lại phải dành tiền cho mẹ đi chạy thận. Nhưng bố mẹ vẫn cho con tất cả những gì có thể, và cậu bé học trò như con cứ vô tư đâu biết lo gì.

Hồi học tiểu học, tiền bạc đối với con là một cái gì đó rất nhỏ, nó là những tờ giấy với đủ màu có thể dùng để mua cái bánh, cái kẹo, gói xôi hay cái bánh mì … Con đâu có ngờ tiền chính là yếu tố quyết định sinh mạng mẹ mình, là thứ bố mẹ phải hàng ngày chắt bóp và bao người thân gom góp lại để trả cho từng ca lọc máu cho mẹ tại bệnh viện Bạch Mai, là thứ càng làm mẹ thêm đau đầu suy nghĩ khi mẹ buộc phải nghỉ việc làm vì điều kiện sức khỏe không cho phép.

Rồi đến khi con học lớp 8, mẹ càng ngày càng yếu và mệt, phải tăng từ 2 lên 3 lần lọc máu/ tuần. Những chỗ chích ven tay của mẹ sưng to như hai quả trứng gà, nhiều hôm máu thấm ướt đẫm cả tấm băng gạc. Do ảnh hưởng từ suy thận mà mẹ còn bị thêm viêm phổi và suy tim. Rồi ông lại bị ốm nặng, bố phải nghỉ việc ở nhà trông ông, nhà mình vì thế càng trở nên túng quẫn, mà càng túng thì càng khổ hơn. Tờ một trăm ngàn hồi ấy là một thứ gì đó xa xỉ với nhà mình. Cũng từ dạo ấy, đầu óc non nớt của con mới dần vỡ lẽ ra rằng tiền bạc chính là mồ hôi, nước mắt, là máu (theo đúng nghĩa đen của nó, vì có tiền mới được chạy thận lọc máu mà) và bao nỗi niềm trăn trở lo lắng của bố và mẹ.

Hôm trước con có hỏi quan điểm của mẹ về tiền bạc thế nào để con có thêm ý viết bài làm văn nghị luận cô giao. Mẹ hơi ngạc nhiên vì câu hỏi đường đột ấy. Rồi mẹ chỉ trả lời với 3 từ gọn lỏn “Mẹ ghét tiền”. Nếu con còn thơ dại như ngày nào, hay như một người ngoài nào khác thì chắc con đã ngạc nhiên lắm. Nhưng giờ đây con cũng đồng ý với mẹ : con cũng ghét tiền. Bởi vì nó mà mẹ phải mệt mỏi rã rời sau mỗi lần đi chạy thận. Mẹ chạy thận 3 lần mỗi tuần, trước đây bố đưa đón mẹ bằng xe đạp nhưng rồi mẹ bảo đi thế khổ cả hai người mà còn phải chờ đợi mất ngày mất buổi của bố nữa nên mẹ chuyển sang đi xe ôm. Nhưng đi xe ôm mất mỗi ngày mấy chục, tốn tiền mà lại chẳng kiếm đâu ra, mẹ quyết định đi xe buýt. Mỗi khi về nhà, mẹ thở hổn hển, mẹ lăn ra giường lịm đi không nói được câu gì. Con và bố cũng biết là lúc ấy không nên hỏi chuyện mà nên để yên cho mẹ nghỉ ngơi. Tám năm rồi, tám năm chứng kiến cảnh ấy nhưng con vẫn chưa bao giờ có thể quen được. Con chỉ biết đứng từ xa nhìn mẹ, và nghiến răng ước “giá như có dăm chục ngàn cho mẹ đi xe ôm thì đâu đến nỗi !”.

Con bỗng ghét, thù đồng tiền. Con bỗng nhớ hồi trước, khi mẹ vẫn nằm trong viện. Ba người bệnh chen chúc chung nhau một chiếc giường nhỏ trong căn phòng bệnh ngột ngạt và quá tải của bệnh viện Bạch Mai. Con đã ngây thơ hỏi mẹ “Sao mẹ không vào phòng bên kia, ở đấy mỗi người một giường thoải mái lại có quạt chạy vù vù, có tivi nữa ?”. Mẹ chỉ nói khẽ “cha tổ anh. Đấy là phòng dịch vụ con ạ”. Con lúc ấy chẳng hiểu gì. Nhưng rồi con cũng vỡ lẽ ra rằng đó là phòng mà chỉ những ai rủng rỉnh tiền thì mới được vào mà thôi. Còn như mẹ thì không được. Con căm nghét đồng tiền vì thế.

Con còn sợ đồng tiền nữa. Mẹ hiểu con không ? Con sợ nó vì sợ mất mẹ. Mẹ đã phải bốn lần đi cấp cứu rồi. Những người suy thận lâu có nguy cơ tử vong cao vì huyết áp dễ tăng, máu dồn vào dễ làm tắc ống khí quản và gây tắc thở. Mẹ thừa biết điều này. Nhiều người bạn mẹ quen trong “xóm chạy thận” đã phải chịu những cái kết bi thảm như thế. Nhiều đêm con bỗng choàng tỉnh dậy, mồ hôi đầm đìa mà lạnh toát sống lưng bởi vừa trải qua một cơn ác mộng tồi tệ …

Con sợ mẹ lại phải đi cấp cứu, và sợ nhỡ nhà mình không đủ tiền để nộp viện phí thì con sẽ mất đi người thân yêu nhất trong cuộc đời này. Mỗi buổi mẹ đi chạy thận là mỗi buổi cả bố và con đều phấp phỏng, bồn chồn, lo lắng. Mẹ về muộn là lòng con nóng như lửa đốt, còn bố thì cứ đi đi lại lại và luôn hỏi “bao giờ mẹ mày mới về?”. Với con cơ hội là 50/50, hoặc là mẹ chạy thận an toàn và về nhà, hoặc là …

Con lo sợ hơn khi đọc báo thấy bảo có người không đủ tiền trả phần ít ỏi chỉ là 5% bảo hiểm y tế, tiền thuốc men mà phải về quê “tự điều trị”. Với những bệnh nhân phải chạy thận, như thế đồng nghĩa là nhận bản án tử hình, không còn đường sống. Con bỗng hoảng sợ tự hỏi nếu không còn BHYT nữa thì sao? Và nếu ông mất thì sao? Chi tiêu hàng ngày nhà mình giờ đây phần nhiều trông chờ vào tiền lương hưu của ông, mà ông thì đã già quá rồi …

Mẹ ơi, tiền quan trọng đến thế nào với gia đình mình thì chắc mẹ hiểu rõ hơn con. Cứ nghĩ đến tiền là con lại nhớ đến những đêm bố mất ngủ đến rạc cả người, nhớ đến những vết chích ven sưng to như quả trứng gà của mẹ, nhớ đến cả thìa đường pha cốc nước nóng con mang cho mẹ để mẹ uống bồi bổ mỗi tối. Mẹ chắt chiu đến mức sữa ông thọ rẻ tiền mà cũng không mua để tự bồi dưỡng sức khỏe cho mình.

Con sợ tiền mà lại muốn có tiền. Con ghét tiền mà lại quý tiền nữa mẹ ạ. Con quý tiền và tôn trọng tiền bởi con luôn biết ơn những người hảo tâm đã giúp nhà mình. Từ những nhà sư tốt bụng mời mẹ đến chùa vào cuối tuần, những cô bác ở Hội chữ thập đỏ quyên góp tiền giúp mẹ và gia đình mình. Và cả những người bạn xung quanh con, dù chưa giúp gì được về vật chất, tiền bạc nhưng luôn quan tâm hỏi thăm sức khỏe của mẹ… Nhờ họ mà con cảm thấy ấm lòng hơn, vững tin hơn.

Con cảm thấy bất lực ghê gớm và rất cắn rứt lương tâm khi mẹ không đồng ý với các kế hoạch của con. Đã có lúc con đòi đi lao động, đi làm gia sư hay đi bán bánh mì “tam giác” như mấy anh sinh viên con quen để kiếm tiền giúp mẹ nhưng mẹ cứ gạt phăng đi. Mẹ cứ một mực “tống” con đến trường và bảo mẹ chỉ cần con học giỏi thôi, con giỏi thì mẹ sẽ khỏe.

Vâng, con xin nghe lời mẹ. Con vẫn đến trường. Con sẽ cố gắng học thật giỏi để mẹ và bố vui lòng. Nhưng mẹ hãy để con giúp mẹ, con đã nghĩ kĩ rồi, không làm gì thêm được thì con sẽ nhịn ăn sáng để tiết kiệm tiền. Không bán bánh mì được thì con sẽ ăn cơm với muối vừng. Mẹ đừng lo mẹ ạ, mẹ hãy an tâm chạy chữa và chăm sóc cho bản thân mình. Hãy để con được chia sẻ sự túng thiếu tiền bạc cùng bố mẹ. Vậy con khẩn thiết xin mẹ đừng cằn nhằn la mắng con khi con nhịn ăn sáng. Mẹ đừng cấm đoán con khi con đi lấy chầy, cối để giã lạc vừng. Dù con đã sút 8 cân so với năm ngoái nhưng con tin rằng với sự thấu hiểu lẫn nhau giữa những người trong gia đình thì nhà ta vẫn có thể sống yên ổn để đồng tiền không thể đóng vai trò cốt yếu trong việc quyết định hạnh phúc nữa.

Đứa con ngốc nghếch của mẹ

Nguyễn Trung Hiếu

(Theo DANTRI.ONLINE)

TIN BUỒN


ĐƯỢC TIN

THÂN MẪU NHÀ THƠ HẢI TRUNG
VỪA QUA ĐỜI TẠI HUẾ,HƯỞNG THỌ 69 TUỔI

XIN CHIA BUỒN ĐẾN NHÀ THƠ HẢI TRUNG VÀ TANG QUYẾN

CẦU NGUYỆN HƯƠNG HỒN CỤ BÀ SỚM VỀ CÕI PHẬT

trần vàng sao - viêm tịnh - nguyễn miên thảo - phạm tấn hầu
trần áng sơn - từ hoài tấn - bảo cường - cao quảng văn
phan trung thành - hồ đăng thanh ngọc - nguyên quân
ngàn thương - phạm nguyên tường - lê vĩnh thái - đông hà
trần dzạ lữ - đặng như phồn -lê tấn quỳnh và bằng hữu

TIA NẮNG - HẠC THÀNH HOA



1. người đàn bà đã có chồng con
mà trái tim còn hừng hực lửa
nàng có cái nhìn của trăng nụ cười của gió và tiếng hót chim khuyên
người đan bà như cụm mây đen
che khuất một khoảng trời xanh thao thức...

2. rồi một ngày chàng bỗng giật mình thảng thốt
có cơn gió lạ vừa thổi qua vùng yên tĩnh của tâm hồn
trái tim bất ngờ đổi nhịp
thảng thốt nhìn quanh
tất cả đều trẻ lại
tất cả đều đáng yêu
những đóa hồng đang hôn ngọn gió...
chàng mơ hồ nghe tiếng sấm vọng từ xa
báo trước một mùa giông bão...

trong chiếc lưới vô hình thật êm thật êm...
cô dơn và yếu đuối
chàng giãy giụa
không ai có thể giúp được chàng
không ai có thể giúp chàng đăm săn đến xứ mặt trời
đang lún dần lún dần xuống vùng sáp nhão

3. có tia nắng qua lỗ thủng mái nhà
vạch một lằn ranh
cắt đi những ý nghĩ điên cuồng tội lỗi
chàng gom hết sức tàn
đẩy người đàn bà ra khỏi tim mình
như bứng một trái núi
một mình đớn đau
một mình vật vã
và khi ngọn núi đã ra khỏi trái tim
một khoảng trống êm đềm và nhức nhối

H T H

CAO HUY KHANH - VN HỒ SƠ HẬU CHIẾN 1975 - 2011 (KỲ 92)


NHỮNG SỐ PHẬN KỲ LẠ

921 – Não Thị Thùy Yến

NHIỄM CĐDC ĐI CHĂN BÒ VẪN THI ĐẠI HỌC

Học sinh khuyết tật nghèo sinh 1991 tại Ninh Thuận. Sống ở Ninh Thuận (2011).
Người dân tộc Chăm chịu di chứng CĐDC từ người cha nên lên 2 tuổi tứ chi bắt đầu teo lại, các ngón tay cong rút lại, thân hình phì ra bề ngang; đến 20 tuổi chỉ cao 1,1m và cân nặng 27kg. Trong nhà còn 2 em trai cũng mắc bệnh tương tự.
Dù vậy vẫn rất ham học nhất quyết nài nỉ cha mẹ cho đi học và học giỏi tốt nghiệp phổ thông dù nhà nghèo sáng đi học thì chiều về phải phụ gia đình đi chăn bò.
Giữa năm 2011 một mình lần mò vào TPHCM, tự tìm người giúp đỡ ở nhà trọ miễn phí để dự thi đại học ngành giáo dục.
Vừa là nạn nhân CĐDC lại người dân tộc chắc chắn em xứng đáng được hưởng chế độ vào đại học.

922 – Nay Đ’Roeng
“SÂU ĐO” ĐI HỌC
Học sinh khuyết tật sinh 1994 tại Gia Lai. Sống ở Gia Lai (2011).
Người dân tộc J’rai, cha mẹ là du kích thời chống Mỹ.
Sau 1975 chồng làm cán bộ xã, đến 1990 bệnh tật nhiều (dính CĐDC mà không biết) nên xin nghỉ về buông làng cùng vợ làm rẫy.
Giữa năm 1990 sinh con đầu lòng là một… quái thai (chỉ có một cục thịt đỏ hỏn) theo tục lệ buôn làng phải chôn đi.
Năm 1992 sinh đứa con thứ hai tuy có hình dạng con người đỡ hơn song mắt lồi, chân tay có màng như vịt khiến buôn làng ra lệnh chôn sống. Nhưng quá thương con nên xin chịu phạt để giữ lại nuôi nấng.
Năm 1994 sinh đứa thứ ba chính là Nay Đ’Roeng thì không có 2 chân, một tay cụt đến khuỷu, một tay cong queo không có bàn tay. Theo tục lệ lại bị đem đi chôn sống nhưng vừa lấp đất thì con ré lên khóc nên cha đau lòng quá mới moi đất bồng lên xin chịu buôn làng phạt lần nữa để được đem con về nuôi.
Đứa bé lớn lên cùng núi rừng vẫn sống được, di chuyển bằng cách bò tới, trườn mình trên đất như con sâu đo. Vậy mà bắt chước trẻ con chung quanh lại đòi… đi học!
Thế là cha phải cõng con đến trường rồi thả con xuống cho con… trườn mình vào lớp. Rồi cũng tập đọc tập viết như ai, viết bằng cách kẹp cây bút vào giữa 2 cùi tay. Hòa nhập với bạn bè, được phát hiện là giỏi toán, giỏi vẽ.
Hè 2011 được trường nội trú huyện Krông Pa nhận vào lớp 7.

923 – Navia Nguyen
SIÊU MẪU THẾ GIỚI ĐẦU TIÊN CỦA VN

Cựu người mẫu quốc tế Việt kiều Mỹ sinh 1973 tại Phú Quốc. Sống ở Mỹ (2011).
Cùng cha mẹ (làm nghề nấu nước mắm) di tản qua Mỹ lúc mới gần 3 tuổi vào thời điểm trước 30.4.1975.
Tại đây từ năm 12 tuổi đã được phát hiện tiềm năng người mẫu nên được đưa vào huấn luyện làm người mẫu ở New York một trung tâm thời trang thế giới.
Từ đó lớn lên trở thành siêu mẫu thế giới nổi tiếng trong thập niên 1970, được bầu vào Top 50 người đẹp nhất thế giới với mức thù lao đi trình diễn 10.000 USD/ngày. Tuy vóc dáng chỉ cao 1,73m (số đo 3 vòng 86-61-86) nhưng nổi bật bởi vẻ đẹp mặn mà trầm lắng “huyền bí Đông phương”.
Song song đó tham gia đóng phim Hollywood qua những bộ phim nổi tiếng như “Tình dục và thành phố” 1998, “Hồi ức của một cô gái quán rượu Nhật” 2005.
Hết thời làm người mẫu chuyển qua làm quản lý nhà hàng thức ăn chay tại khu Manhattan tầm cỡ ở New York. Lấy chồng Mỹ có một con.
Năm 2001 quay về VN lần đầu tiên. Sau đó trở lại lần nữa sống 3 năm từ 2002-2005 để “tìm lại ngồn cội” như tâm sự: “Tôi luôn cảm thấy hãnh diện vì mình là người VN. Mặc dù chưa làm gì được cho quê hương mình nhưng ít ra tôi đã chứng minh được cho thế giới biết rằng phụ nữ VN duyên dáng biết bao không hề thua kém ai…”
Trong thời gian này còn tham gia làm trợ lý đạo diễn cho đạo diễn Úc Philipp Noyce quay bộ phim “Người Mỹ trầm lặng” (phỏng theo cuốn tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Anh Graham Green) tại VN.

924 – Nghiêm Xuân Hồng
TỪ HỌC THUYẾT GIAI CẤP TIỂU TƯ SẢN ĐẾN ĐẠO PHẬT

Nhà tư tưởng Việt kiều Mỹ sinh 1920 tại Hà Đông – Mất năm 2.000 ở Mỹ (81 tuổi).
Di cư 1954 vào Nam hành nghề luật sư.
Song song đó có tham vọng hoạt động chính trị, lập thuyết chống Cộng dựa vào giai cấp trí thức tiểu tư sản làm nền tảng để chống lại lý thuyết cộng sản lấy giai cấp vô sản làm chủ đạo.
Vừa lập nhóm Quan Điểm quy tụ một số trí thức văn nghệ sĩ miền Bắc di cư (Vũ Khắc Khoan, Mặc Đỗ…) vừa viết sách luận thuyết, dịch thuật và cả viết kịch nói để truyền bá tư tưởng đó. Có lúc được mời ra tham chính làm bộ trưởng song chỉ được một thời gian ngắn không đi đến đâu.
Sau 1975 di tản qua Mỹ.
Bây giờ không còn tiếp tục làm lý thuyết gia chính trị nữa mà quay ngoắt 180 độ qua nghiên cứu… Phật học. Bỏ nhiều năm “nằm dài đọc kinh Phật”: “Tôi gần 50 tuổi mới đọc kinh Đại thừa, tôi bàng hoàng nhận thấy rằng trong các kinh chư Phật nhiều như các sông Hằng, khác miệng nhưng đồng lời đều khẳng định rằng các cõi thế gian chỉ là biến hóa, các chúng sinh chỉ là biến hóa. Biến hóa của cái tự tâm ấy, một trường nhân duyên trùng trùng khởi khởi lên … …”
Từ đó còn vào chùa tham gia tu tập, dạy Phật học ở chùa…
Có điều trùng hợp lạ lùng là lại có người anh ruột ở lại miền Bắc làm… trụ trì chùa Một Cột ngay Thủ đô Hà Nội!

925 – Ngọc Nuôi
VỢ CHỒNG THÀ RẰNG KHÔNG GẶP LẠI CÒN HƠN!

Nữ diễn viên cải lương tên thật Nguyễn Ngọc Nuôi sinh 1939 tại miền Nam – Mất năm 2002 ở Mỹ (64 tuổi).

Trước 1975 hợp cùng chồng là Việt Hùng thành một đôi nghệ sĩ cải lương tài sắc vẹn toàn nổi tiếng trên sân khấu đoàn Thanh Minh.
Lấy nhau từ năm 1948, chính người vợ đã đưa chồng (trước đó là ca sĩ đài phát thanh) vào nghề cải lương, vợ đóng đào lẳng còn chồng chuyên vai kép độc tiếng tăm. Sinh được 3 trai 3 gái.
Ngày 30.4.1975 chồng cùng ban nhạc trẻ của các con (2 trai 2 gái) đang trình diễn trong CLB văn nghệ ở sân bay Tân Sơn Nhất thì được tin Sài Gòn giải phóng nên 5 cha con được đưa lên máy bay di tản gấp qua Mỹ luôn. Vợ và 2 con nhỏ (con gái áp út cùng con trai út) bị kẹt lại ở đoàn Thanh Minh.
Từ đó vợ tiếp tục trụ lại trên sân khấu đoàn Thanh Minh (thêm tên thành đoàn Thanh Minh – Thanh Nga) diễn cải lương nuôi 2 con. Con gái Ngọc Bích trưởng thành trở thành một giọng ca nhạc trẻ rất được hâm mộ.
Trong lúc đó chồng ở Mỹ chạy sô trình diễn cải lương đồng thời mở lớp dạy ca cải lương. Nhưng năm 1987 lại “ôm cầm sang thuyền khác” nên chẳng lo chuyện bảo lãnh qua Mỹ cho vợ con còn lại trong nước.
Đến năm 1993 các con đi trước mới bảo lãnh cho mẹ và 2 em đi Mỹ. Nhưng tới nơi rồi mới phải đối diện với nghịch cảnh đau lòng chồng cũ đã tự động “tan hàng” từ lúc nào không còn lo gì được cho vợ cũ cũng là đồng nghiệp bạn đồng diễn vang bóng một thời.
Người vợ già bị tình phụ chỉ còn nương dựa vào các con để đi hát đóng vai đào lão một mình tự nuôi thân với nỗi lòng cay đắng xót xa chiêm nghiệm thấy tình đời đen bạc còn gấp mấy lần vở diễn.
Dù sao cũng đợi người chồng bội bạc ấy qua đời trước một năm rồi mình mới cất bước theo sau. Hạ màn một vở tuồng cuộc đời lâm ly ai oán bởi sự tàn nhẫn của thời cuộc.

926 - Ngô Đức Nhựt
MỘT MÌNH TỰ GỠ 10.000 QUẢ MÌN
Nông dân sinh 1942 tại Bình Thuận – Mất năm 2005 ở Bình Thuận (64 tuổi).

Trốn lính chế độ Sài Gòn nên chấp nhận vào làm trong lực lượng Xây dựng nông thôn, một tổ chức bán quân sự chống Cộng của chính quyền theo mô hình Mỹ lập ra.
Vì vậy sau 1975 chỉ bị đi cải tạo ngắn hạn 20 ngày.
Trở về quê làm rẩy, tự mình xắn tay vào khai khẩn 5 hecta đất hoang cùng vợ bán gà vịt nuôi 3 con nhỏ. Nhưng khu đất này là một căn cứ cũ của quân đội Sài Gòn nên còn chứa rất nhiều mìn bẫy nằm sâu dưới lòng đất từng gây sát thương cho nhiều người dân trong vùng.
Dù tự nhận mình tính “rất nhát, cầu an” song bây giờ không còn cách nào khác là phải tìm cách xăm tìm bom mìn rồi tự tay gỡ nó nhờ cũng có được một số kiến thức về bom mìn thời làm ở Xây dựng nông thôn. Từ đó với những dụng cụ thô sơ (kìm, búa, đục, xẻng) đã lần mò đi gỡ mình “tự phát”!
Ban đầu chỉ gỡ được 2 quả mìn/ngày rồi dần dà tăng “năng suất” có ngày lấy lên đến 30 quả mìn. Vài ngày một lần gom mìn lại (đã vô hiệu hóa) bỏ vào thúng gánh đến “nộp” UBND xã giống như… gánh khoai! Trước đó khi xã chưa biết cớ sự, nghi có hoạt động mờ ám dính líu “an ninh quốc gia” nên đã cho… bắt về giam 50 ngày.
Cuối năm 1990 do sơ ý bị mìn nổ làm mất một mắt trái, phải bán 2 con bò để lo tiền nằm viện cả tháng trời.
Có thời gian một đại đội công binh nhận nhiệm vụ đến rà phá bom mìn ở đây chưa gì đã bị mìn nổ làm bị thương nặng 2 chiến sĩ, sau phải nhờ nhà “gỡ mìn tư nhân” này làm cố vấn cùng tham gia công tác đó.
Đến năm 1995 cơ bản đã dọn sạch 5 héc ta đất để bắt tay vào trồng điều làm kinh tế. Tính ra trong 20 năm đã lần lượt gỡ được khoảng 10.000 quả mìn đủ loại (mìn râu, mình phốt pho, mìn cóc, đạn M79…) đưa lên từ lòng đất.
Nhưng đến đây thì tuổi già sức yếu, bệnh tật đè nặng lên đôi vai, vợ lại vừa qua đời nên đành giao lại cho con cái tự lực cánh sinh trên vùng đất hoang hóa đó.
Sau này xã cho thu hồi một phần đất lớn để xây trường học, có đền bù gọi là tượng trưng, hoàn toàn không ghi nhận biểu dương gì tấm gương “tay không bắt… mìn” có một không hai.
Năm 2002 một đoàn làm phim về quay bộ phim tài liệu “Vùng đất chết” với mình đóng vai chính nhưng sau đó phim đưa đi đâu chẳng biết, nghe nói đoạt giải quốc tế mà bản thân nhân vật chính không hề được báo tin hay khen thưởng, trả công gì cả!
Vẫn sống phẫn đời còn lại chui rúc trong chòi lá tiêu điều, mắc bệnh lao phải cắt một lá phổi, con mắt còn lại (sau tai nạn nổ mìn) cũng mù nốt!

927 – Ngô Kim Oanh
BÀ VỢ KHÍ CÔNG
Cán bộ về hưu sinh 1926 tại Hà Nội. Sống ở Hà Nội (2007).
Chồng là đại tá cựu chiến binh trên chiến trường miền Nam về hưu năm 1985, sống cùng vợ 3 con.
Nhưng sau khi về hưu, chồng phát bệnh huyết áp, tiểu đường phải cắt bỏ một phần túi mật. Bất trị nhất là bệnh “ngứa” kỳ dị một trong 13 loại bệnh di chứng CĐDC khiến người bệnh ngứa ngáy cả người suốt ngày dù nằm liệt một chỗ, nằm kiểu gì cũng ngứa đến gãi rách da chảy máu luôn. Không thể giải phẫu chữa bệnh được vì đã nằm liệt giường.
May sao bà vợ được người chỉ cho đi học khóa khí công dưỡng sinh dùng năng lượng trong người (nhiệt năng) tập trung truyền ra 2 bàn tay áp vào người bệnh nhân có thể làm giảm được “sức” ngứa, bắt nó “ngủ yên” (như kiểu truyện “chưởng” Kim Dung, tất nhiên có “công lực” thấp hơn nhiều!). Nhờ sự vận công này giúp điều hòa khí huyết lưu thông cho người bệnh, “đả thông kinh mạch” cho chạy đúng hướng tránh gây xáo trộn đường thông máu, nguyên nhân gây tác động ngứa lan ra ngoài thân.
Kết quả trên cả mong đợi, giúp chồng đỡ ngứa ăn được ngủ được tốt hơn nhiều. Chồng đã có thể trở người dậy ngồi xe lăn cho vợ đẩy đi đây đó.
Từ đó người vợ chuyên tâm tập khí công ngày càng đạt công phu thượng thừa, tất cả nhằm mục đích giúp chồng trị bệnh. Theo lịch đều đặn hàng ngày tự tập “gom” năng lượïng trong mình từ 4h30 đến 6 giờ sáng, sau đó từ 7h đến 8 giờ truyền năng lượng qua cho chồng nhắm vào những chỗ ngứa nhiều. Kiên trì làm như vậy đã hơn16 năm qua.

928 - Ngô Thị Bi Bi
VIỆT CỘNG NẰM VÙNG GỐC… PAKISTAN!

Cán bộ về hưu người gốc Pakistan tên cũ Mahamas Bi Bi sinh 1931 tại Hà Nội. Sống ở TPHCM (2010).
Mẹ dân Hà Nội lấy chồng thương gia Pakistan qua buôn vải ở VN trước Cách mạng Tháng 8.1945.
Khi xảy ra chiến tranh chống Pháp, mẹ mất nên đượïc cha đưa qua Campuchia sinh sống, thuê một cô giáo VN chăm sóc.
Nhưng cô giáo này lại là cán bộ cộng sản bị mật thám Pháp qua tận Campuchia truy tầm nên cô phải bỏ trốn về vùng chiến khu Nam bộ đem theo cả cô con gái nuôi mới 13 tuổi mang 2 dòng máu VN – Pakistan (do lúc đó ông bố đi làm ăn xa, sợ để em lại sẽ bị quân Pháp bắt).
Từ đó cô bé theo mẹ nuôi thành ra… con em cộng sản theo mẹ đi hoạt động chống Pháp, cải tên theo họ mẹ.
Được một thời gian thì mẹ nuôi mất, tiếp tục được các bà má Nam bộ khác nuôi nấng. Rồi lớn lên làm giao liên cộng sản ra vào hoạt động ở Sài Gòn – Gia Định. Nhân dịp này có tìm gặp lại người cha Pakistan vẫn làm nghề kinh doanh vải tại Sài Gòn.
Năm 1949 bị thương nặng trên đường về căn cứ do máy bay địch phát hiện thả bom nên phải ở luôn trong bưng biền chữa trị.
Sau 1954 được đưa về Sài Gòn nằm vùng làm địa điểm liên lạc, hội họp, che giấu cán binh cộng sản cho đến ngày giải phóng miền Nam. Vẫn sống độc thân nên nhận nuôi nhiều con em gia đình liệt sĩ.
Sau 1975 vẫn sống lặng lẽ cô đơn trong cảnh khó khăn thời hậu chiến mà vẫn chưa được hưởng chế độ, khen thưởng huân – huy chương gì do thủ tục nhiêu khê ít có tiền lệ giải quyết cho một trường hợp hiếm hoi người nước ngoài đi theo Cách mạng VN lưu lạc vào Nam tận thời xửa thời xưa nào như vậy!
Mãi đến năm 2006 mới nhận được quyết định… nhập quốc tịch VN và công nhận thương binh cách mạng.

929 – Ngô Thị Thúy Hằng
WWW.NHANTIMDONGDOI.ORG
Nhà hoạt động xã hội sinh 1978 tại TPHCM. Sống ở TPHCM (2011).

Tốt nghiệp đại học ngành báo chí ra làm phóng viên và biên tập cho một số tờ báo ở TPHCM.
Theo tâm nguyện của mẹ đã bỏ nhiều thì giờ, công sức đi tìm mộ người bác ruột quê Thái Bình liệt sĩ thời chống Pháp. Cuối cùng cũng tìm ra được, an táng ở nghĩa trang thuộc tỉnh Hà Nam nhưng nằm trong 50 ngôi mộ vô danh không phân biệt được.
Từ kinh nghiệm đi tìm mộ mới cảm thông với nỗi đau của bao gia đình liệt sĩ đến nay vẫn chưa biết mộ chí người thân nơi đâu. Do đó tham gia vào nhóm sinh viên ĐH Bách khoa Hà Nội lập trang web “nhantimdongdoi.org”.
Tuy nhiên đến năm 2004 trang web này có nguy cơ bị xóa sổ do các thành viên cũ bận lo việc kiếm sống không còn thì giờ lẫn nhiệt tình làm cái việc “vác tù và” nữa. Nhưng bản thân không chấp nhận từ bỏ công việc “đền ơn đáp nghĩa” nên tự nguyện xin thôi việc các báo để tập trung toàn tâm toàn ý làm nhiệm vụ “nhắn tìm đồng đội” cho người khác.
Làm bài bản, công phu, khoa học bằng cách đi lập quan hệ nghiên cứu tư liệu ở các đơn vị quân đội liên quan, các Sở Lao động – Thương binh, đến tận nhiều chiến trường xưa ở đường Trườøng Sơn, Quảng Trị, Tây Nguyên, qua cả Lào và Campuchia… để thu thập thông tin…
Đặc biệt từ trang web trên tiến tới thành lập Trung tâm Quản lý dữ liệu về Liệt sĩ và người có công (MARIN) đếùn nay đã đăng tải hơn 37.000 thông tin tìm kiếm mộ liệt sĩ, hơn 210.000 thông tin về mộ liệt sĩ đã quy tập…
Từ đó giải mã các phiên hiệu đơn vị quân đội, các mặt trận qua các thời kỳ chiến tranh (ghi trên giấy báo tử viết tắt ký hiệu khó hiểu nhằm bảo vệ bí mật quân sự) cho mọi người biết, tổ chức các buổi tư vấn hướng dẫn cho trên 2.000 thân nhân liệt sĩ đi tìm mộ, năm 2010 xây dựng cả một Đài Tưởng niệm Liệt sĩ trên mạng như kiểu một “nghĩa trang ảo” lớn nhất nước (địa chỉ www.lietsivietnam.org)…
Một công việc quy mô, trách nhiệm nặng nề cho một cô gái còn trẻ chấp nhận hy sinh cuộc đời riêng cả công danh sự nghiệp khỏe hơn nhiều với tâm nguyện tự đặt ra cho chính mình “Thấm mệt cái đường xa, mong sao đừng đứt gánh”!

930 - Ngô Thời Bình
NGƯỜI MANG ÁN “TỬ HÌNH TREO”
Thương binh sinh tại Hà Nội. Sống ở Hà Nội (2010).

Trở về từ chiến trường miền Nam là thương binh nặng bị một mảnh đạn pháo chui vào nằm gọn giữa tâm não bác sĩ không dám mổ lấy ra, mà không mổ lấy ra thì bất cứ lúc nào vết thương tiềm ẩn đó cũng có thể làm chết bất đắc kỳ tử. Vì thế mới được đặt cho biệt danh người mang án “tử hình treo”!
Từ đó còn sinh ra di chứng nửa người bị liệt, hay lên cơn động kinh, miệng méo, mắt lác, tóc và râu bạc trắng như cụ già.
Nhưng vốn bản tính lạc quan vui vẻ từ thủa nào không chấp nhận cam phận sống đời vô dụng nhạt nhẽo nên nỗ lực tập luyện để hồi phục từng bước rồi xin rời viện về với gia đình.
Dần dà hòa nhập lại với cuộc sống bình thường với vợ con (2 con gái), những khi trái gió trở trời phải cắn răng chịu đựng một mình cơ thể đau nhức, đau đầu để khỏi làm gia đình buồn lo.
Chẳng những thế, còn lao vào công việc giúp đỡ, hỗ trợ đồng đội cũ như đi vận động làm hồ sơ hưởng chế độ thương binh, cựu chiến binh, gia đình liệt sĩ, nạn nhân CĐDC, đồng bào dân tộc nghèo trên chiến trường xưa; vận động xây nhà tình nghĩa cho bạn bè, theo đoàn đi tìm hài cốt liệt sĩ… Cùng đồng đội cũ tham gia thành lập Trung tâm Hỗ trợ nhân đạo Trường Sơn để làm những việc đó dù bản thân gia đình sống nhờ vào quán nước chè nhỏ của vợ.
Tất cả chỉ vì lời thề trước khi lên đường vào chiến trường miền Nam: Nếu trời vẫn cho mình sống qua chiến tranh thì phải sống cho xứng đáng với những người đã nằm xuống.
(Còn tiếp)

KHI ANH RỜI NGÀY THU - HOÀNG LỘC

KHI ANH RỜI NGÀY THU
https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEj624yBELvBiPPsBGebjBcpU6whJnwISVWdTzQu9HCI8fxs4LsIcNuVu1hRyll8uoGtcK7-LZLZEND-gQDWTgVqlqV-Ch1ngkl3a8TX3rr9TZR40XxmKQkj2VQGhyYi20I7pVOdX8-2KFA/s1600/1256121897-mua-thu1.jpg

khi anh rời ngày thu, chưa mùa gì trên phố
chỉ thấy đôi nhân tình vội vã cuối công viên
họ đi đâu, cứ như loài di trú ?
hành trang chẳng có gì ngoài gió nắng mông mênh

anh cũng chẳng có gì ngoài tình em dấu kỹ
không mang trên vai mà gửi tận trong lòng
chiếc lá cuối cùng đã làm nên lữ thứ
có rời ngày thu cũng chưa chắc về đông

đôi điều muốn nói cùng em, rồi không nói
bởi mây bay cũng chẳng nói bao giờ
anh bước mỗi bước nhọc nhằn mà bước vội
để kịp đời mình ở cuối bãi hoang sơ...

2-11-11

TƯỞNG NHỚ - HOA TRẦN


Có những con đường ra khỏi đời tôi.
Mang theo lớp rêu bộn bề lòng phố
Có những người đã xa khỏi đời tôi.
Cuốn ngọn cỏ khô về nằm đáy mộ.
Tôi sẽ nói, một lần ơn tri ngộ
Là nghìn lần nhớ nhớ với thương thương
Là bóng ai qua,là những con đường.
Là cọng cỏ khô,là cành lá mục.
Mưa Đà Nẵng có làm ai thao thức?
Nửa đêm. Ngồi soi bóng quái ngả nghiêng
Tiếng thở dài ,mọc trên nhánh ưu phiền.
Tôi đã về như một lần đã hứa.
***
Vài năm nữa hay là trăm năm nữa.
Biển sẽ xa,những lớp sóng muôn trùng.
Người phố cũ, hồn rong rêu, bật khóc .
Tôi cười buồn cùng nỗi nhớ xa xưa.
Những viên ngói thâm đen cùng nắng mưa
Đan kết lại thành một màu lưu cữu
Bóng thời gian, đọng trên tóc đã vừa.
Những sợi trắng đong đưa buồn ủ rũ.
Con đường xưa chỉ về trong giấc ngủ
Người là hồn bóng quế cuối nghĩa trang
Tôi nhớ thương,và thương nhớ vô vàn!

HT

THƠ TRẺ HUẾ - BÁO HIỆU SỰ CHUYỂN DÒNG - HOÀNG THỤY ANH

Tác phẩm in chung 5 nhà thơ trẻ Huế :
Đông Hà,Đặng Như Phồn,Lê Tấn Quỳnh,Lê Vĩnh Thái,Phạm Nguyên Tường

Gọi thơ trẻ Huế, có nhiều cách hiểu. Ở bài này, người viết chọn cách hiểu thơ của những người trẻ, cụ thể là từ độ tuổi 7x trở về sau. Có thể khẳng định, ở Huế, có một đội ngũ thơ trẻ. Xin được liệt kê các gương mặt trẻ: “Hoa cúc mùa thu”, “Lá tháng Chạp”, “Quang gánh và những bài thơ khác” của Phạm Nguyên Tường; “Người đi chăn sóng biển” của Văn Cầm Hải;“Điệp ngữ tình” của Nguyễn Lãm Thắng; “Linh Ngọc”, “Vông vang” của Lê Tấn Quỳnh; “Thơ đá”, “Mưa kim cương”, “Người đàn bà che mặt” của Đông Hà; “Truồi” của Ngô Công Tấn; “Khúc đêm”, “Miền yêu” của Châu Thu Hà; “Kí ức xanh”, “Ngày không nhớ” của Lê Vĩnh Thái; “Người ngủ muộn” của Fan Tuấn Anh; Hải Trung; “Bốn mùa yêu”, “Gọi em ở cuối thiên đường” của Lưu Ly; “Lập Thiền”, “Khi người ta cúi mặt” của Nhụy Nguyên; “Tái tạo” của Luân Nguyễn… Ngoài đội ngũ thơ trẻ có sản phẩm, Huế còn nhiều cây bút khác như: Nguyễn Anh Dân, Tạ Xuân Hải, Lê Trà Linh, Hoàng Thị Thiều Anh… Những sáng tác của các tác giả này chưa in thành sách nhưng cũng ít nhiều đã góp phần bổ sung lực lượng sáng tác thơ trẻ ở Huế.

Đội ngũ khá hùng hậu, nhưng chưa mạnh, chưa có những danh thơ như thời Ngô Kha, Trần Quang Long, Trần Vàng Sao, Nguyễn Khoa Điềm và thế hệ tiếp nối từ sau 1975.

Sự thành công của người viết trẻ bao gồm sự tác động của cả hai yếu tố: chủ quan và khách quan. Về yếu tố chủ quan: bầu nhiệt huyết, lòng đam mê của nội lực trẻ; thích tìm tòi, khám phá, nhanh nhạy tiếp cận cái mới, có ý thức sáng tạo, chịu được làn roi của dư luận trước vấn đề mà mình thể nghiệm; vốn ngoại ngữ; ý thức được vai trò của mình đối với sứ mệnh thi ca; mong muốn khẳng định cá tính của mình. Về yếu tố khách quan: sự chuyển hướng, vận động của thơ ca trong xu thế toàn cầu hoá, ngôi nhà thơ trở nên đa dạng về mẫu mã (thơ hậu hiện đại, thơ trình diễn, thơ tân hình thức,...); sân chơi thông thoáng, cởi mở; thời đại của công nghệ thông tin; hình thức PR. Những yếu tố chủ quan và khách quan ảnh hưởng, chi phối đến quá trình sáng tác của các cây bút trẻ. Người theo trường phái này, người theo trường phái khác, người ảnh hưởng kiểu sáng tác của nhà văn này, người ảnh hưởng sáng tác của nhà văn khác… Cách xuất phát điểm có thể khác nhau nhưng họ đều giống nhau ở một điểm: khát khao cống hiến sức trẻ của mình vào công cuộc làm mới thơ. Thơ trẻ Huế có nhiều điểm riêng chung so với các vùng miền thơ ca khác. Những điểm riêng chung ấy cũng hệ luỵ đến những mặt tích cực và hạn chế của thơ trẻ Huế.

Thứ nhất, đặc trưng của vùng đất cố đô, nếp sống và nếp nghĩ của người Huế đậm nét trong các sáng tác của các nhà thơ trẻ. Có người cho rằng, thơ trẻ Huế ít viết về đất Thần kinh, nhưng nếu khảo sát kĩ các tập thơ của họ, chất thơ mộng của Huế vẫn là nguồn cảm hứng của nhiều cây bút. Họ gửi gắm tình cảm của mình với quê hương, với con người nơi đây. Bản sắc văn hoá Huế không hề trộn lẫn với các vùng miền khác, từ điệu nói, điệu nghĩ, điệu cảm của con người nơi đây. Những bài thơ: “Mùa” của Hải Trung, “Huyền khúc sông Hương” của Phạm Nguyên Tường; “Nhớ”“Ru mưa” của Lê Vĩnh Thái; “Truồi”, “Gánh cơm hến”“Mưa hoàng thành” của Ngô Công Tấn; “Huyền thoại dòng Hương” của Nhuỵ Nguyên; “Gởi người rời Huế”, “Trở lại Hoàng cung” của Đông Hà, “Trong tình yêu anh”“Khoảng lặng” của Châu Thu Hà… Không chỉ mang dấu ấn của vùng đất thơ mộng mà trong thơ của các tác giả trẻ Huế, ngôn từ cũng rất riêng, đặc trưng. Những từ ngữ: gởi, chi, chừ, …. vẫn được sử dụng ở một số bài thơ, ở một số tác giả.

Thứ hai, thơ trẻ ở Huế xuất phát điểm từ thơ truyền thống đến thơ tự do. Buổi đầu, đa phần họ chọn thể thơ truyền thống để chuyển tải các chủ đề về quê hương, tình yêu, tình bạn như: Phạm Nguyên Tường, Lê Tấn Quỳnh, Đông Hà, Ngô Công Tấn, Nhuỵ Nguyên, Nguyễn Lãm Thắng, Châu Thu Hà, Lưu Ly… Thơ còn ít đụng chạm đến các vấn đề bức xúc của cuộc sống, ít hướng đến chiều dài văn hoá, lịch sử. Tiếng nói trong thơ còn nhẹ, ngại sự đụng chạm, vì thế, chiều kích của cuộc sống chưa mở được hết biên độ. Lúc này, sáng tác của họ chưa đủ sức vang, đang còn lẫn vào bạt ngàn dòng chảy của thơ. Sau này, những năm gần đây, các cây bút trẻ có sự chuyển mình trong sáng tác rất rõ rệt. Họ mạnh dạn cởi tấm áo thơ chật hẹp và gò bó bấy nay, nhiều tác giả tự làm mới thơ mình. Những vấn đề nóng bỏng, thế sự ít nhiều được cài vào thơ. Nhờ thế, thơ giàu tính triết lý hơn. Nguyễn Lãm Thắng “nói nhiều về điều không thể nói”; Lê Tấn Quỳnh đớn đau trước thảm cảnh “nơi cái nhìn nhau cũng nhón mình tất tả”; Nhuỵ Nguyên tê tái lòng trước “những mảnh vỡ tội tình” trong thời bình; Fan Tuấn Anh “đi xa xăm về phía lãnh thổ của nỗi buồn và sự đớn đau trong trái tim loài người thơ dại”. Lưu Ly sống với “thế giới của những trò đùa, ngọt ngào và giả dối”. Đông Hà “cứ vương máu chảy” trước nỗi đau da cam của con người…

Thứ ba, cuộc sống khắc nghiệt của miền Trung cùng với đặc điểm kín đáo, tế nhị của người Huế ảnh hưởng đến tư duy thơ của lớp trẻ. Vì thế, thơ ca của họ luôn có sự thâm trầm, sâu lắng, phảng phất nét buồn cố đô. Đây là điểm khác biệt lớn so với thơ ca của các vùng khác. Phải chăng, vì thế mà phong cách táo bạo, dấn thân như Nguyễn Vĩnh Tiến, Vi Thuỳ Linh, Phan Huyền Thư, Lưu Mêlan không hợp lắm đối với vùng đất này ? Thay vào đó người đọc có thể kì vọng vào những con đường đi khá “biệt” và lạ “Nơi hơi thở nhân gian chùng áp thấp/ Nơi đụng độ nơi đọa đày/ Nơi quật ngã không tiếc thương/ Nơi giật nổ/ Ớn rung/ Nguồn khởi động”(Quang gánh) của Phạm Nguyên Tường, nơi Hải Trung với cơn mê loang lổ chân đê/ gió tung rơm điểm tô chân trời/ kim thời gian xoắn nguợc nụ cười/ đêm sâu vẹt mòn tiếng khóc” (Gọi những giấc mơ), nơi Nguyễn Lãm Thắng có đôi mắt quắc sáng nhìn xuyên thủng huyền thoại” “thấy từng miếng thời gian gãy khúc trên chiếc lưỡi dối lừa”, nơi Văn Cầm Hải “…bước vào căn nhà bằng đôi chân cháy mòn hộ khẩu/ một tiếng ho choáng mùa/ nẩy màu đêm dậy” (Cánh cửa đỏ), nơi Lê Vĩnh Thái “buộc tên mình ném vào tháng ngày cũ rích để cô đơn nhú lộc khắp phòng”, nơi Fan Tuấn Anh – “người mục đồng đi chăn thả nỗi buồn” kiến tạo, đối sánh tình yêu trong lớp trầm tích của thời gian-văn hóa, nơi Nhuỵ Nguyên “vén mặt kiếp người”, nơi Lê Tấn Quỳnh “lấy nỗi buồn thắt chỉ sông”… Sự biệt và lạ ấy chưa thật sự là một xu hướng của thơ trẻ Huế, chưa làm nên chất trẻ riêng có của Huế, nhưng có thể coi đó là dấu hiệu báo trước sự chuyển dòng.

Vẫn còn nhiều cây bút trẻ Huế sử dụng thể loại truyền thống (thơ lục bát, 5 chữ, 6 chữ…) như: Phạm Nguyên Tường, Hải Trung, Nhụy Nguyên, Đông Hà, Châu Thu Hà, Ngô Công Tấn… nhưng họ biết thổi vào thơ lối tư duy mới: “Tôi xin một chút hương thừa/ đem về đốt lấy lập chùa tu riêng/ Tu rằng một chút tình duyên/ Cũng đem hương khói qua miền gian truân” (Nhan sắc – Đông Hà); “Tôi ngồi đối bóng giấc mơ/ thấy mình như một câu thơ… liệm rồi” (Chiêu hồn - Nhuỵ Nguyên); … Xu hướng hiện đại, cách tân dần dần được nhiều cây bút trẻ như: Nguyễn Lãm Thắng, Fan Tuấn Anh, Lê Tấn Quỳnh, Luân Nguyễn, Lưu Ly…tìm đến. Linh hoạt hai trục: trục lựa chọn và trục kết hợp, các nhà thơ trẻ Huế sắp đặt, cát dán, lắp ghép ngôn từ rất hiệu quả. Văn Cầm Hải tinh tế trong từng mũi chỉ đường khâu của con chữ: “Mùi quế hương lưu vong/ tấm lưng trần liệm nắng/ ngọn râu khoai lườm nguýt mặt đất/ những bầu vú ra khơi vắt sữa mặt trời!” (Hoe chân lời). Hải Trung khảo cổ ngay trên nền phế tích loang từ ngực thiếu phụ” để tìm: “từng lớp một.../ mảnh bom, mảnh đạn/ chiến tranh đi- những vết xước thân mình/ này bật lửa zippo/ này thắt lưng hoen rỉ/ mùi thuốc súng khét giữa bình minh” (Khảo cổ). Lê Vĩnh Thái “nuốt vào ngực quãng vắng đời mình” “để hiểu thêm tật nguyền tiềm ẩn. Nguyễn Lãm Thắng tập mở mắt nhìn thế giới phía giác độ người mù: “trong khối óc chứa nhiều gai nhọn/ những tế bào tê liệt bởi thời gian hoen ố/ lại bới đào để tìm thấy nhau trong từng miếng sứt cổ vật/ sự bành trướng đang nuốt một cách tham lam từng giọt muối biển/ thương dòng sông toát mồ hôi mấy ngàn năm” (Có thể nói nhiều về điều không thể nói)… Và/với một Nguyễn Lãm Thắng hiện đại, táo bạo trong cách viết: những đám mây xám toa rập/ chúng có thể cười toang hoác dưới bầu trời ngột/ và tự đứt ra từng khúc nhão nhoẹt/ có một con đường chúng đã chọn/ và bay không lối thoát/ có những lúc chúng bay giật lùi mơ hồ/ có những lúc chúng quần nhau che giấu sự dối trá/ có những lúc chúng nâng đỡ nhau tiếp sức nhau bằng những bàn tay lọc lừa ánh sáng/ chúng đã tìm ra cái rốn của sự đoàn kết đó là vòng xoáy có thể nhận chìm những hạt bụi nhẹ dạ/ và đến lúc chúng tự cấu xé hạ bệ nhau trong vòng xoáy lạnh lùng khát máu ấy” (Những đám mây xám). Nguyễn Lãm Thắng đã và đang đưa cái mới, cái khác, giọng điệu riêng cho thơ trẻ Huế.

Tuy bước đầu đã làm nên cái lạ, cái biệt, đang đẩy những vấn đề thiết thực của đời sống vào trong thơ thay vì mải miết kiếm tìm ở những đề tài cũ, quen thuộc, nhưng bệ phóng của thơ trẻ Huế chưa thực sự trở thành làn sóng. Những cây bút triển vọng thường tham gia sân chơi ở các trang mạng, ít hội tụ ở báo viết và in thành sách để bạn đọc rộng đường tiếp cận. Điều này cũng tác động hai chiều đến sự phát triển và diện mạo thơ trẻ Huế.

Thực ra, con đường mà các tác giả trẻ Huế đi cũng không lạ, mới so với những cây bút trẻ của cả nước. Khuynh hướng tự do, ấn tượng, lập ngôn ngay từ lúc cầm bút, như ở hai đầu đất nước, thì thơ Huế chưa trội. Hai xu hướng thơ truyền thống và thơ hiện đại vẫn tồn tại song song trong đội ngũ thơ trẻ Huế tạo nên diện mạo riêng: vừa cổ kính, thâm trầm vừa tươi trẻ, mạnh bạo. Khi chất sống, nhựa sống, hơi thở của thời đại đi vào thơ, thơ trẻ Huế đang dần dần vươn đến cái mới, có những tìm tòi, thể nghiệm về mặt nội dung lẫn hình thức. Dẫu chưa có hiện tượng gây xôn xao thi đàn như thơ trẻ Bắc, Nam, song những gì mà thơ thơ trẻ Huế đã và đang có đã khẳng định/đại diện sức trẻ của thơ miền Trung. Những nét riêng và chung của thơ trẻ Huế vừa góp phần vào sự phát triển của thơ Việt Nam, vừa minh chứng tiếng nói riêng của vùng đất nắng gió.

Đồng Hới, 15-10-2011

H.T.A

Nguồn: Văn nghệ Trẻ